Ngày 01 tháng 11

          “…Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công[1].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gửi cho báo Pravđa (Liên Xô); Báo Nhân dân, đăng số 4952, ngày 01 tháng 11 năm 1967.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác – Lênin như kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và Người luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó vào thực tiễn cách mạng. Sự khẳng định trên của Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và đánh giá cao bài học kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng, đó là một trong những bài học có tính nguyên tắc và phổ biến, đảm bảo cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Thực tiễn chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục giành những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó, Đảng ta phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với Quân đội ta, đó cũng là nguyên tắc, nền tảng tư tưởng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn cao tinh thần tự giác, tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng; đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn của đơn vị nhằm thực hiện có hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao.

Ngày 02 tháng 11

“… chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác[2].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc, đăng trên Báo Nhân dân, số 2056, ngày 02 tháng 11 năm 1959.

Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ngành, các cấp ra sức thi đua thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và Chính phủ về xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xóa bỏ tư hữu cá nhân về ruộng đất để phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất sâu sắc trong bối cảnh toàn miền Bắc đang thực hiện hợp tác xã nông nghiệp, việc xây dựng cũng như quản lý hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, chưa có kinh nghiệm. Mặt khác, ở một bộ phận cán bộ quản lý vẫn còn tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa, chỉ muốn nhận cái tốt về mình và đẩy cái xấu, cái chưa tốt cho người khác, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Lời dạy của Bác trong thời điểm này, không những chỉ ra những hạn chế, biện pháp khắc phục mà còn là lời căn dặn, nhắc nhở đối với toàn thể cán bộ làm công tác quản lý nhà nước ta nói chung và quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, kịp thời chấn chỉnh những nhận thức, quan điểm lệch lạc của một số tổ chức và cá nhân trong phương thức làm ăn mới, góp phần vào xây dựng tính tập thể, tình đoàn kết toàn dân thành một khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở cho nông nghiệp miền Bắc phát triển và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, để cho mỗi cá nhân trong tập thể “tự soi, tự sửa”, xây dựng ý thức và hành động của bản thân, mình vì mọi người, tất cả vì miền Nam ruột thịt, góp phần vào thắng lợi của cách mạng miền Nam.

Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm… Học tập và làm theo lời Bác dạy, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn đề cao tình đồng chí, đồng đội, biết chia sẻ khó khăn, biết trân trọng những thành quả, quyết tâm khắc phục những hạn chế, thiếu sót, không mắc bệnh “thành tích”, không háo danh, phô trương, không tranh công đổ lỗi cho người khác, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; xác định tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, chủ động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.


Ngày 03 tháng 11

… Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi…[3].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Lời kêu gọi cả nước tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, đăng Báo Nhân dân, số 5317, ngày 03 tháng 11 năm 1968.

Lời kêu gọi thể hiện sâu sắc ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, phản ánh niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, dù phải chịu nhiều hy sinh gian khổ nhưng không thể lay chuyển ý chí, quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam về một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Lời kêu gọi của Người tựa như lời “hịch” đanh thép thúc giục cả dân tộc đồng tâm, nhất trí, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Lời kêu gọi còn là một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, củng cố niềm tin, xiết chặt đội ngũ để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả nhân loại tiến bộ trong thế kỷ XX. Đó là tinh thần kiên quyết tiến công của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta, của toàn quân và toàn dân ta trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng. Tinh thần tiến công đó tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biên giới, biển, đảo, đặc biệt là trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại. Các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội. Để thực hiện trọn vẹn lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, đảm bảo lực lượng vũ trang nhân dân luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất và các nhiệm vụ khác được giao.


Ngày 04 tháng 11

“… Muốn thắng, thì ta phải tích cực, tự động, bí mật, mau chóng, kiên quyết, dẻo dai. Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch…”[4].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi các cán bộ, chiến sĩ chủ lực và dân quân du kích trong Chiến dịch Hòa Bình”, Người viết tháng 11 năm 1951.

Đây là thời điểm Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Hòa Bình nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thị xã Hòa Bình, đập tan phòng tuyến sông Đà và tạo điều kiện phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ. Đây là sự chỉ đạo sát sao, sự động viên khích lệ của Bác, thể hiện nhãn quan chính trị, quân sự thiên tài nhạy bén của Người đã đánh giá đúng tình hình địch, ta, phán đoán trước được âm mưu, hành động xảo quyệt của những tên đế quốc, thực dân xâm lược. Đó còn là phương châm, tư tưởng, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của chiến dịch, đồng thời phản ánh rõ nét tư tưởng “đánh chắc thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh – một tư tưởng đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo cao nhất, đem lại niềm tin, nguồn sức mạnh chính trị, tinh thần to lớn để tiếp thêm sức mạnh và ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các chiến sĩ ngoài mặt trận.

Quán triệt lời dạy của Người, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng, lập công xuất sắc, đập tan cuộc tiến công lên Hòa Bình cùng với âm mưu lập “Xứ Mường tự trị” của thực dân Pháp. Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình là thành công của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chỉ đạo tiến công chiến dịch và đưa quân đội ta có bước tiến mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày trên hai mặt trận rộng lớn và phức tạp; tạo ra cơ hội thuận lợi cho các chiến trường khác đẩy mạnh chiến tranh du kích, liên tục tiến công, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển lực lượng kháng chiến và mở rộng thêm nhiều vùng căn cứ làm cho cục diện chiến trường thay đổi ngày càng có lợi cho ta, góp phần cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân ta trên các chiến trường.

Hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” đối với cách mạng nước ta và sẵn sàng can thiệp bằng vũ trang khi cần thiết. Để đánh thắng các thế lực thù địch, Quân đội ta cần chủ động nắm chắc tình hình, đánh giá và dự báo đúng các tình huống phức tạp có thể xảy ra; phát hiện kịp thời âm mưu, hành động của chúng để chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể sẵn sàng ngăn chặn, đẩy lùi từ xa; duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, quản lý chặt chẽ biên giới, vùng trời, vùng biển, hải đảo, nhất là các khu vực còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống. Mỗi cán bộ, chiến sĩ cần xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng đập tan mọi ý đồ xâm lược của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Ngày 05 tháng 11

Giao thông vận tải là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì các việc đều dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trễ[5].

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Công việc khẩn cấp bây giờ”, Người viết ngày 05 tháng 11 năm 1946.

Đây là thời điểm đất nước ta vừa mới giành được độc lập, công cuộc kiến thiết đất nước đặt ra nhiều “công việc khẩn cấp” phải giải quyết. Trong đó, giao thông vận tải là một trong những “công việc khẩn cấp” cần được quan tâm giải quyết ngay. Câu nói của Bác tuy giản dị, ngắn gọn nhưng rất sâu sắc, không chỉ nhấn mạnh đến vị trí, ý nghĩa, vai trò quan trọng của giao thông vận tải trong công cuộc kiến thiết đất nước mà còn là lời nhắc nhở, chỉ rõ nhiệm vụ và trách nhiệm đối với những người làm công tác giao thông vận tải. Thực hiện lời dạy của Bác, lớp lớp các thế hệ cán bộ, kỹ sư, công nhân lao động ngành giao thông vận tải Việt Nam đã luôn nỗ lực phấn đấu, tích cực, chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, lời dạy của Bác năm xưa vẫn còn nguyên giá trị, được các thế hệ cán bộ, kỹ sư, công nhân lao động ngành giao thông vận tải trên khắp mọi miền đất nước quán triệt, học tập và làm theo. Ngành gia thông vận tải đã dồn hết tâm huyết, trí tuệ, công sức vào sự nghiệp phát triển giao thông vận tải để thiết kế và xây dựng nên hệ thống cầu, đường, sân bay và bến cảng hiện đại… làm cho hệ thống hạ tầng giao thông ở nước ta ngày càng hiện đại, ngang tầm với các nước tiến tiến trong khu vực và trên thế giới. Để giao thông vận tải luôn “đi trước một bước”, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế – xã hội và góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của Tổ quốc.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, các đơn vị quân đội, trong đó nòng cốt là lực lượng công binh, Binh đoàn Trường Sơn đã không quản ngại khó khăn, hiểm nguy, sẵn sàng chấp nhận hi sinh để mở những con đường chiến lược giúp cho bộ đội hành quân vào mặt trận chiến đấu, chiến thắng kẻ thù xâm lược trong chiến tranh và góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước ngày nay, lập nên truyền thống “Mở đường thắng lợi”. Hiện nay, nhiều đơn vị quân đội đã phát huy cao độ tiềm năng, lợi thế của mình để tích cực, chủ động tham gia có hiệu quả vào các dự án, công trình xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của đất nước, bảo đảm vừa phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, vừa phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, nhất là ở khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và các địa bàn trọng yếu, chiến lược. Những việc làm đó đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng trong thời kỳ mới.

 

Ngày 06 tháng 11

… Khen, chê phải đúng mức. Khen nhưng khen quá lời, “suy tôn” người được khen thì chính người được khen xấu hổ. Đập nhưng đập bậy thì người ta không phục…[6].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một buổi họp của Bộ Chính trị tiếp tục cho ý kiến về nội dung Đại hội Văn nghệ, ngày 06 tháng 11 năm 1962, đăng trên Báo Nhân dân, số 3148, ra ngày 07 tháng 11 năm 1962.

Sáng ngày 06 tháng 11 năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Bộ Chính trị để cho ý kiến về nội dung Đại hội Văn nghệ. Khi bàn về chủ trương tổ chức cho anh em văn nghệ sĩ đi một đợt thực tế dài hạn ở nông thôn, Người đã tán thành chủ trương này và có những lời căn dặn quý báu đối với các văn nghệ sĩ đi thực hiện nhiệm vụ này. Đây là sự nhắc nhở sâu sắc, có giá trị định hướng về nhận thức, tư tưởng đối với mỗi văn nghệ sĩ cần nêu cao ý thức trách nhiệm, bám sát thực tiễn, khen, chê phải đúng mức; nói cách khác, Người yêu cầu các văn nghệ sĩ phải phản ánh trung thực và khách quan cuộc sống lao động, chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ở vùng nông thôn.

Thực hiện lời căn dặn của Bác, các thế hệ văn nghệ sĩ nước nhà đã thường xuyên bám sát đời sống nông thôn, lăn lộn trên đồng ruộng, gò đồi, cũng như trên các chiến trường đầy khói lửa; hòa mình vào cuộc sống lao động sản xuất, chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân, từ đó cho ra đời nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, tích cực cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn… góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 Ngày nay, trước bối cảnh phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, là bài học sâu sắc định hướng nhận thức, tư tưởng, phương châm hành động của các văn nghệ sĩ; bồi dưỡng cái tâm và cái tài, cổ vũ động viên các văn nghệ sĩ bám sát cơ sở, đi sâu khám phá cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân, qua đó sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật hay và tốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đối với Quân đội ta, thấm nhuần lời dạy của Bác, đội ngũ văn nghệ sĩ Quân đội đã thường xuyên bám sát các đơn vị cơ sở, nhất là những đơn vị đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; lăn lộn cùng với bộ đội trên các thao trường, bãi tập, nơi bộ đội làm công tác dân vận, tham gia phòng, chống thiên tai, bão lũ, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn… để phản ánh trung thực cuộc sống học tập, công tác và sinh hoạt của bộ đội. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của cán bộ, chiến sĩ; tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tuyên truyền, cổ vũ động viên kịp thời những tấm gương người tốt, việc tốt, đồng thời phê phán những cái xấu, cái tiêu cực, góp phần xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh, để mỗi đơn vị quân đội thực sự là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa, nhân cách quân nhân, bồi đắp phẩm chất ”Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Ngày 07 tháng 11

 … Nhờ Cách mạng Tháng Mười thành công mà một thế giới mới đã ra đời và ngày càng phồn vinh, càng mạnh mẽ như hoa nở mùa Xuân”[7].

Đây là sự đánh giá, ghi nhận về thắng lợi vĩ đại cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trích trong bài viết “Vui vẻ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười” gửi Báo Sự thật (Liên Xô), Báo Nhân dân, đăng số 2061, ngày 07 tháng 11 năm 1959.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và những gì mà cuộc cách mạng này tạo ra có sức lan tỏa, cổ vũ, lôi cuốn, thúc đẩy mãnh liệt đối với phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế, làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa của thực dân, đế quốc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh. Đối với Việt Nam, “đi theo con đường cách mạng vô sản”, con đường của Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga cho tới nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do và quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững thành quả cách mạng, hoà bình, môi trường chính trị – xã hội ổn định để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao toàn diện chất lượng cuộc sống nhân dân.

Ngày nay, thế giới đã có những biến động, thay đổi to lớn, sâu sắc, với không ít những thách thức về chính trị, an ninh, kinh tế – xã hội, xu thế hội nhập, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ… Song, thành quả của Cách mạng Tháng Mười vẫn còn nguyên giá trị lịch sử, thời đại, đã và đang thôi thúc giai cấp công nhân và những người tiến bộ tiếp tục cống hiến, hy sinh không mệt mỏi trong cuộc đấu tranh để xây dựng một thế giới hòa bình, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, bình đẳng, bác ái, không còn áp bức, bóc lột, không còn những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến xung đột, chiến tranh – đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Đối với nước ta, bước vào giai đoạn cách mạng mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch, phản động, chống đối tuy thất bại nhưng vẫn không chịu từ bỏ âm mưu, ý đồ chống phá sự nghiệp cách mạng của đất nước, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng với mọi phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Nhiệm vụ cách mạng thay đổi đặt ra yêu cầu cấp bách cho lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân phải kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Tuyệt đối không bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.


Ngày 08 tháng 11

Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh[8].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Hô hào nhân dân chống nạn đói”, đăng Báo Cứu quốc, số 86, ngày 08 tháng 11 năm 1945.

Hơn 70 năm đã qua đi, nhưng trong ký ức của người dân Việt Nam, nạn đói năm 1945 vẫn còn là một cơn ác mộng, một nỗi đau nhức nhối, khó quên. Do chính sách độc ác của bọn phát xít Nhật và thực dân Pháp đã khiến cho hơn 2 triệu người dân Việt Nam phải chết vì đói, bằng một phần mười dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Lời của Bác vừa là lời tố cáo đanh thép về tội ác “trời không dung, đất không tha” của bè lũ thực dân đế quốc đã gây ra cho dân tộc Việt Nam, vừa là động lực thôi thúc nhân dân cả nước quyết tâm vượt qua khó khăn, gian khổ ra sức lao động, sản xuất để tạo ra nhiều lương thực nhằm giải quyết nạn đói trước mắt và chi viện cho tiền tuyến, góp phần vào thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Lời của Bác là bài học nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam phải luôn nêu cao ý thức tự lực, tự cường, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng và chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; đồng thời, chúng ta phải ra sức phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tích cực và chủ động hội nhập sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dù ở bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cùng với thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, Quân đội ta luôn chủ động, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế bằng hình thức, biện pháp phù hợp, đúng định hướng của Đảng. Qua đó, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tới, nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng; nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đứng trước những thuận lợi và cơ hội to lớn, song cũng có không ít khó khăn, thách thức. Để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ mới, đòi hỏi Quân đội cần tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, đóng góp nhiều hơn nữa vào phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường tiềm lực, sức mạnh của đất nước, xứng đáng là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” trong thời kỳ mới.

Ngày 09 tháng 11

…Phải ra sức thi đua:

Luyện tập thân thể cho mạnh mẽ.

Nghiên cứu kỹ thuật cho thông thạo.

Trau dồi tinh thần cho vững chắc.

Hun đúc đạo đức của người quân nhân cách mạng cho vững vàng[9].

Đây là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi lớp “Chuẩn bị tổng phản công” Trường Trung học Lục quân Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1), đăng trên Báo Cứu quốc, số 1392, ngày 09 tháng 11 năm 1949.

Đây là thời điểm quân và dân ta đã bước sang năm thứ ba của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Nhằm nâng cao trình độ chính trị, quân sự, nhất là trình độ tác chiến của đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cuộc kháng chiến, Trường Trung học Lục quân Trần Quốc Tuấn đã mở lớp “Chuẩn bị tổng phản công”. Để động viên kịp thời, Người đã viết thư gửi đến lớp học này. Lời huấn thị của Bác tuy ngắn gọn, nhưng cụ thể và rõ ràng, thể hiện sự quan tâm sát sao và nhắc nhở sâu sắc đối với mỗi cán bộ chỉ huy trong quá trình học tập và rèn luyện tại Trường Trung học Lục quân Trần Quốc Tuấn cũng như các nhà trường khác trong Quân đội.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, gần 70 năm qua, các nhà trường quân đội đã liên tục phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, đào tạo, bồi dưỡng được hàng vạn cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta giành thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong chiến tranh biên giới phía Bắc, Tây Nam, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và làm tròn nhiệm vụ quốc tế cao cả.

Đặc biệt trong những năm gần đây, thực hiện phương châm đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, lấy người học làm trung tâm, xây dựng nhà trường chính quy, tiên tiến, mẫu mực; các nhà trường đã tích cực triển khai đồng bộ, toàn diện các mặt công tác, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong thời kỳ mới. Đi đôi với nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, các nhà trường luôn tích cực, chủ động trong công tác nghiên cứu khoa học và đã nghiên cứu thành công nhiều đề tài khoa học cấp Bộ, cấp ngành có chất lượng cao. Duy trì nghiêm nền nếp chính quy, chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Quản lý, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn kinh phí trên cấp, đầu tư xây dựng mới hệ thống cơ sở hạ tầng khang trang, hiện đại phục vụ tốt cho nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của bộ đội.

Ngày 10 tháng 11

… Cán bộ và bộ đội nhất định phải đi sát với nhân dân vì lực lượng của nhân dân là vô cùng mạnh mẽ…[10].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi đồng bào và bộ đội (Vệ Quốc quân và dân quân du kích Tả Ngạn, Liên khu 3”, Người viết ngày 10 tháng 11 năm 1951, đăng trên Báo Quân đội nhân dân, số 34, ra ngày 01 tháng 12 năm 1951, trong bối cảnh sau khi nhận được báo cáo của đồng bào và bộ đội Tả Ngạn, Liên khu 3 về thành tích tiêu diệt địch, Bác đã gửi thư khen ngợi đồng bào, bộ đội và cán bộ, quân, dân, chính thuộc Liên khu 3.

Với tư duy chiến lược và tầm nhìn xa trông rộng, Người đã chỉ ra được cội nguồn sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội đều bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân; từ cơm ăn, áo mặc, xe cộ đi lại đến vũ khí đánh giặc đều do mồ hôi công sức nhân dân mà có. Người khẳng định: “Không có dân thì không có bộ đội”, “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”. Chỉ có đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, dựa vào dân, được nhân dân tin yêu như con em ruột thịt thì quân đội mới có được những thuận lợi trong chiến đấu, công tác, sản xuất cũng như trong mọi sinh hoạt của cuộc sống. Cách xa dân, không gắn bó với nhân dân, không liên hệ mật thiết với nhân dân, không dựa vào dân thì quân đội không thể có sức mạnh, không thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta đã cho thấy, nguồn gốc sức mạnh của quân đội không chỉ bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự quan tâm của các tổ chức chính trị xã hội, từ sức mạnh bên trong của quân đội, mà còn bắt nguồn từ sự đoàn kết giữa quân đội với nhân dân, sự yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân đối quân đội.

Lời dạy của Bác năm xưa đến nay vẫn còn nguyên giá trị về lý luận và thực tiễn đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi người, cần được triển khai sâu rộng trong toàn xã hội và toàn quân. Đối với quân đội, phải phát huy bản chất cách mạng, phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân; tôn trọng, giúp đỡ, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; một lòng, một dạ chiến đấu bảo vệ nhân dân, luôn luôn giữ nghiêm kỷ luật quan hệ quân – dân, không phụ lòng tin yêu của nhân dân; tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế – xã hội, “xóa đói giảm nghèo”, xây dựng nông thôn mới, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia phong trào “Đền ở đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”… Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải không ngừng học tập, rèn luyện, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, thực hiện tốt lời dạy của Người: “phải dựa vào nhân dân, không được xa rời dân, nếu không thế thì sẽ thất bại”.


Ngày 11 tháng 11

“Phải luôn thi đua học tập và công tác, mở rộng tự phê bình và phê bình để tiến bộ mãi, để làm cho bộ đội ta càng thêm hùng mạnh, chính quyền ta càng thêm vững chắc”[11].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư khen các chiến sĩ và cán bộ của các đơn vị tiếp quản Thủ đô”, đăng trên Báo Nhân dân, số 260, ra ngày 11 tháng 11 năm 1954.

Thư gửi của Người viết trong trong thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa mới kết thúc (07/5/1954), Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21/7/1954). Sau một thời gian bộ đội ta về tiếp quản Thủ đô và bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng. Để cổ vũ, động viên kịp thời các đơn vị quân đội tiếp quản Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi và có những lời căn dặn quý báu đối với các đơn vị thực hiện nhiệm vụ này. Lời căn dặn của Bác là sự nhắc nhở sâu sắc đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta khi thực hiện nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô cần ra sức thi đua trong học tập và công tác, tích cực tu dưỡng và rèn luyện, giữ vững phẩm chất, đạo đức, khí tiết của người quân nhân cách mạng; gương mẫu trong mọi lời nói, hành động và việc làm; phải thường xuyên mở rộng và nêu cao tự phê bình và phê bình…

Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, lời dạy của Bác có ý nghĩa to lớn, là sự định hướng cho quá trình học tập và công tác của mỗi cán bộ, công chức, viên chức các cấp, nhất là những cán bộ chủ trì các cấp, phải là lực lượng xung kích, đi đầu, phải nêu gương trên mọi lĩnh vực. Muốn vậy, mỗi cán bộ, công chức, viên chức các cấp cần tích cực học tập để nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp tác phong công tác; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống; có thái độ giao tiếp, ứng xử chuẩn mực, có năng lực và tính chuyên nghiệp cao trong thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao; thường xuyên nêu cao tự phê bình và phê bình, khắc phục những hạn chế, yếu kém để hoàn thiện bản thân. Đặc biệt, cần kiên quyết đấu tranh phòng, chống và khắc phục kịp thời sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ra sức học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chính trị, quân sự, chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được giao. Chủ động sáng tạo, quyết đoán, tự lực, tự cường, mưu trí, dũng cảm trong thực hiện nhiệm vụ. Chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; gương mẫu trong thực hiện các quy định, nền nếp chế độ công tác, sinh hoạt, học tập, rèn luyện của đơn vị. Nói đi đôi với làm, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thẳng thắn, kiên quyết sửa chữa, khắc phục khuyết điểm; đấu tranh với mọi biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, gia trưởng, quân phiệt và những biểu hiện tiêu cực khác.

 

Ngày 12 tháng 11

“Cán bộ và chiến sĩ đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định vượt được khó khăn, sửa được sai lầm, giành được thắng lợi”[12].

Đây là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện tại “Hội nghị cán bộ trung, cao cấp quân đội”, tháng 11 năm 1956.

Lời dạy của Bác là sự nhắc nhở sâu sắc đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, lúc thường cũng như khi ra trận phải đoàn kết chặt chẽ, nêu cao tình thương yêu đồng chí, đồng đội, giúp đỡ nhau như ruột thịt; chỉ có đoàn kết mới có được sức mạnh để hoàn thành mọi nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù… Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta đã cho thấy, cán bộ và chiến sĩ thực sự đoàn kết trên cơ sở tình cảm cách mạng, tình thương yêu giai cấp, tình đồng chí, đồng đội thân thiết, cởi mở, chân thành; thực sự thương yêu, gắn bó, coi cơ quan, đơn vị như gia đình, đồng chí, đồng đội là anh em. Đặc biệt, cán bộ luôn đồng cam cộng khổ, sẵn sàng nhận khó khăn, gian khổ, hy sinh về mình, nhường cơm, sẻ áo cho chiến sĩ; sống với nhau có nghĩa, có tình, tin tưởng, tôn trọng, quan tâm giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xây dựng tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, cùng chung mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; cùng phấn đấu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…

Phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội trong thời kỳ mới, cán bộ, chiến sĩ luôn khắc ghi lời dạy của Bác về xây dựng mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ giữa cán bộ và chiến sĩ. Biểu hiện nổi bật của sự đoàn kết đó được thể hiện ở tinh thần phát huy dân chủ, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Quân đội, đơn vị. Cán bộ phải có trách nhiệm chăm lo mọi mặt cho chiến sĩ; ngược lại, cấp dưới phải tôn trọng, phục tùng mệnh lệnh cấp trên, chiến sĩ tin cậy, bảo vệ cán bộ. Trên dưới đồng lòng, toàn quân thành một khối vững chắc, thống nhất ý chí và hành động, vì mục đích chung của cách mạng, của quân đội, của đơn vị và sự tiến bộ của mỗi người. Mỗi cơ quan, đơn vị thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở; bảo đảm để mọi cán bộ, chiến sĩ, cấp trên, cấp dưới đều bình đẳng về chính trị, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau; phát huy đầy đủ dân chủ về chính trị, quân sự, kinh tế, đi đôi với giữ vững và tăng cường kỷ luật tự giác, nghiêm minh. Đoàn kết chặt chẽ giữa cán bộ và chiến sĩ phải gắn với đấu tranh, thực hiện tự phê bình và phê bình chân thành, thẳng thắn, nhằm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, trong đó cần kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, quân phiệt, vi phạm dân chủ, vi phạm nhân cách quân nhân.

Ngày 13 tháng 11

Học hành là vô cùng. Học càng nhiều biết càng nhiều càng tốt…[13].

Đây là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi đồng bào xã Duyên Trang, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình”, ngày 13 tháng 11 năm 1947.

Sau hơn hai năm Trung ương Đảng và Chính phủ phát động toàn dân thực hiện phong trào diệt giặc dốt, phong trào đã đạt được những kết quả quan trọng, hàng triệu người dân Việt Nam đã biết đọc, biết viết. Bác Hồ rất vui mừng khi nhận được báo cáo về kết quả kỳ thi ngày 06 tháng 9 năm 1947, toàn dân xã Duyên Trang từ 8 tuổi trở lên đều thoát nạn mù chữ. Bác đã thay mặt Chính phủ gửi lời khen ngợi đến đồng bào toàn xã, nhất là cảm ơn các phụ lão, thân hào đã ra sức giúp đỡ, các cán bộ bình dân học vụ đã cố gắng dạy dỗ bà con nhân dân trong xã.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về tinh thần tự học. Người không những là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, mà còn là một nhà giáo dục, một tấm gương “suốt đời tự học” để trưởng thành, để đi lên, để tiến bộ. Theo Người, muốn trở thành người có đức, có tài để phục vụ và cống hiến nhiều cho Đảng, cho nhân dân thì “suốt đời phải học tập”. Chỉ có học tập, con người mới nâng cao sự hiểu biết về mọi mặt và phục vụ cho quê hương, đất nước nhiều hơn, tốt hơn.

Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào diệt giặc dốt đã được toàn dân đồng lòng, đồng sức triển khai với quyết tâm cao, toàn dân, toàn quân ra sức học tập, lao động sản xuất để chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế tri thức, khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đi vào chiều sâu, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị, nhất là đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước nhà. Đảng, Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, mỗi người dân Việt Nam cần nêu cao tinh thần tự học, tự rèn, tích cực “học tập suốt đời” theo gương Bác để phục vụ tốt hơn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đối với Quân đội ta, thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần nhận thức sâu sắc việc học tập, rèn luyện vừa là nghĩa vụ, vừa là trách nhiệm, là vinh dự của mỗi quân nhân; phải coi việc học tập là một nhu cầu tự thân, nó thấm sâu vào mỗi quân nhân, trở thành cách nghĩ và hành động trong cuộc sống của mỗi người. Cần chủ động khắc phục mọi khó khăn, sử dụng mọi thời gian, tranh thủ mọi điều kiện để học tập, rèn luyện với tinh thần bền bỉ, kiên trì, cầu tiến bộ.

Ngày 14  tháng 11

Những ai đã lầm đường mà nay hối cải thì sẽ được khoan thứ.”[14]

Đây là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Công điện số 508/D ngày 14 tháng 11 năm 1950 “Điện gửi đồng bào Sơn Hà”.

 Ngay khi nhận được tin có số ít đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi bị giặc Pháp lợi dụng những sai lầm của một số cán bộ địa phương đã kích động, xúi giục, gây bè cánh chống lại chính quyền, làm rối loạn trị an, gây mất đoàn kết nội bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi Công điện để trấn an và động viên đồng bào và Bác đã nói rõ quan điểm, chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với những người lầm đường, lạc lối theo địch, chống phá cách mạng nhưng đã giác ngộc và quay về với cách mạng thì đều được chính quyền xem xét, khoan thứ.

Chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam, khuyến khích những người lầm đường, lạc lối hối cải, kiên quyết dứt bỏ quá khứ tội lỗi, rèn luyện trở thành người có ích cho xã hội.

Thấu triệt tư tưởng nhân đạo, khoan dung của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn chấp hành nghiêm chính sách nhân đạo đối với tù hàng binh trong chiến tranh, thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo, khoan dung của “Bộ đội Cụ Hồ” đối với địch, dù họ là kẻ đi xâm lược, giết hại, cướp bóc đồng bào ta, nhưng khi bị bắt vẫn được bộ đội ta đối xử thấu tình, đạt lý để họ cải tả, quy chính, thức tỉnh lương tri, trở về với gia đình, với Tổ quốc, đã làm giảm đi nhiều những nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh gây ra, nhất là làm giảm nỗi hận thù giữa hai dân tộc, quốc gia đối địch trong chiến tranh.

Ngày 15 tháng 11

… Đã tự kiêu, tự ái thì không thể đoàn kết. Không đoàn kết tức là cô độc. Đã cô độc thì chẳng việc gì thành công[15].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Bệnh tự kiêu, tự ái”, dưới bút danh X.Y.Z, đăng trên báo Sự Thật, số 102, ra ngày 15 tháng 11 năm 1948.

Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta mới được hai năm, trong xã hội đã có một số cán bộ có biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, công thần, hẹp hòi, kèn cựa địa vị, cục bộ bè phái, mất đoàn kết, chủ quan khinh địch; thiếu cố gắng vươn lên, tự cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được, việc gì mình cũng giỏi hơn người, mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai; không can đảm tự phê bình, không ưa những lời phê bình thật thà ngay thẳng… nói tóm lại là đã mắc bệnh tự kiêu, tự ái. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Bệnh tự kiêu, tự ái”, vạch rõ thực chất của căn bệnh này và khẳng định: “… Đã tự kiêu tự ái, thì không thể đoàn kết. Không đoàn kết tức là cô độc. Ðã cô độc, thì chẳng việc gì thành công”.

Giá trị, ý nghĩa sâu sắc câu nói của Bác vẫn còn tính thời sự, là lời răn dạy đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và quần chúng nhân dân phải luôn toàn tâm, toàn ý phục sựu Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân; chống mọi biểu hiện vô cảm, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Phải ra sức thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn khiêm tốn, trung thực, dũng cảm, mạnh dạn tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình; kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm và phát triển ưu điểm. Luôn gương mẫu đi đầu, nói đi đôi với làm; không ngừng học tập nâng cao trình độ, cố gắng học hỏi để luôn luôn tiến bộ. Phải ra sức thực hành đoàn kết, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, cục bộ địa phương, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc các tiêu chí phẩm chất đạo đức cách mạng của quân nhân. Không ngừng học tập, phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện với tinh thần cầu thị, gắn với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, học tập và công tác hàng ngày; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đề cao tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ tự lập kế hoạch, xác định nội dung và phương pháp tự học tập, rèn luyện cụ thể phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của bản thân và điều kiện thực tế của đơn vị. Tự nghiên cứu, tự đọc tài liệu, sách, báo, cập nhật và xử lý thông tin hằng ngày để bổ sung tri thức, nâng cao hiểu biết, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm hay vào tổ chức thực hiện nhiệm vụ.

Ngày 16 tháng 11

Quân dân đoàn kết một lòng,

Kháng chiến thắng lợi, cờ hồng tung bay[16].

Câu thơ trên trích trong bài thơ “Kế hoạch Na va đầu voi đuôi chó” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh “C.B”; Báo Nhân dân, đăng số 408, từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 11 năm 1953.

Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang diễn ra quyết liệt, quân và dân ta liên tiếp giành được những thắng lợi lớn trên các chiến trường, thực dân Pháp thất bại thảm hại phải liên tiếp thay quân, đổi tướng với nhiều kế hoạch tác chiến khác nhau nhằm cứu vãn tình thế, nhưng chúng đều thất bại thảm hại trước sức mạnh đoàn kết quân và dân ta cùng sát cánh trên mọi chiến trường, với quyết tâm sắt đá phải giành cho được độc lập dân tộc.

 Thực hiện lời Bác Hồ kính yêu căn dặn, quân và dân ta đã phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó máu thịt, nhân dân đã đồng tâm, hiệp lực, nuôi dưỡng, giúp đỡ, cung cấp sức người, sức của cho bộ đội. Ở đâu có dân, ở đó có dấu chân bộ đội, bộ đội đánh giặc, bảo vệ nhân dân. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Bộ đội của ta là bộ đội Cụ Hồ, bộ đội của dân sống giữa lòng dân; bộ đội không quản ngại khó khăn, gian khổ, chiến đấu anh dũng, kiên cường, chấp nhận hy sinh để giải phóng đất nước, giải phóng nhân dân khỏi ách đô hộ, bóc lột của đế quốc, thực dân xâm lược. Tình quân dân cá nước, quân với dân một ý chí đã tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, đất nước hòa bình, độc lập, nhân dân được tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Ngày nay, đất nước hòa bình, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đất nước đang đứng trước thời cơ mới và cả những thách thức mới; đặc biệt là sự chống phá của các thế lực thù địch với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó chúng tập trung chống phá mối quan hệ gắn bó máu thịt quân dân. Tình hình đó, đòi hỏi Quân đội ta phải tập trung xây dựng nâng cao sức mạnh tổng hợp, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng đánh thắng mọi kiểu loại chiến tranh xâm lược. Quân đội cần  tích cực tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế – xã hội; “xóa đói, giảm nghèo”, “đền ơn, đáp nghĩa”, xây dựng cơ sở chính trị ở các địa phương; là lực lượng chủ lực trong cứu hộ, cứu nạn, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai; sẵn sàng hy sinh vì sự bình yên của đất nước, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Ngày 17 tháng 11

“Để đánh thắng kẻ thù chung, chúng ta nhất định phải đoàn kết chặt chẽ. Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta”[17].

Đây là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài phát biểu tại Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân quốc tế, họp ở Mátxcơva,  tháng 11 năm 1960.

Trong bối cảnh chủ nghĩa cơ hội xuất hiện, các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân quốc tế đang có sự chia rẽ, bất hòa trong nhận thức và giải quyết các vấn đề quốc tế. Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài phát biểu và kêu gọi sự đoàn kết thống nhất của các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Lời khẳng định của Bác có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện tư duy nhạy bén, tầm nhìn xa trong rộng của Người trước các vấn đề quốc tế, qua đó nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Thực hiện lời dạy của Người đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đây là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường đoàn kết quốc tế, đoàn kết với nhân dân lao động các nước, với các dân tộc, với nhân loại tiến bộ vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, tư tưởng sô vanh, nước lớn.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, Quân đội ta cần gắn bó thủy chung, vô tư, trong sáng, chí nghĩa, chí tình với quân đội và nhân dân các nước anh em, bè bạn quốc tế; sẵn sàng làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả; không tự cao, tự đại hoặc kẻ cả, ban ơn, không ỷ lại, dựa dẫm vào sự giúp đỡ của quân đội và nhân dân các nước; góp phần tích cực vào xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với quân đội và nhân dân các nước, nhất là các nước có chung mục tiêu lý tưởng, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống, các nước lớn, phấn đấu vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân quán triệt và nhận diện rõ đối tượng – đối tác của cách mạng, đối tượng tác chiến của quân đội, thực hiện nghiêm đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Không mơ hồ mất cảnh giác, không bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ngày 18 tháng 11

… Muốn có hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật sự…[18].

Đây là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nội dung trả lời phỏng vấn nhà báo Phêlích Gơrin (nhà báo người Anh), ngày 18 tháng 11 năm 1965, để giải thích về lập trường của Việt Nam trước đề nghị thương lượng của phía Mỹ; Báo Nhân dân đăng trên số 4266, ngày 09 tháng 12 năm 1965.

Suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam buộc phải đứng lên đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cũng chỉ với khát khao đất nước được độc lập, nhân dân được sống trong hòa bình, tự do. Từ khát vọng cháy bỏng đó mà nhân dân Việt Nam đã không tiếc mồ hôi, nước mắt, máu xương của biết bao thế hệ cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, no ấm, hạnh phúc của mình. Lời khẳng định “… Muốn có hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật sự…” của Bác như là một chân lý, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc. Đó không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là một giá trị to lớn trong học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp vĩ đại đấu tranh vì độc lập, tự do, vì sự tồn tại và phát triển của dân tộc.

Thấu triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về giá trị to lớn của hòa bình và điều kiện tiên quyết để có được hòa bình thực sự, Đảng ta chủ trương phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là lợi ích cao nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy nội lực, tranh thủ tối đa các thuận lợi từ bên ngoài, kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, vừa hợp tác vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác, tránh xung đột đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc… Đối với Quân đội ta, phải trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Thường xuyên nắm chắc tình hình, đánh giá chính xác, tham mưu sắc bén cho Đảng, Nhà nước, phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ,. Ngành Trung ương, các lực lượng và các địa phương chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ngày 19 tháng 11

… Rất mong các đồng chí chiến sĩ và cán bộ ta hết sức cẩn trọng trong mọi cử chỉ, để cho thế giới đều thấy rằng “Quân đội Cụ Hồ có khác![19].

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Nhân dân với Quân đội”, đăng trên Báo Nhân dân, số 267, ra ngày 19 tháng 11 năm 1954.

Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta vừa kết thúc (07/5/1954). Miền Bắc được giải phóng, đi lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà. Trong cuộc kháng chiến này, Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến đấu hết sức anh dũng trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn, gian khổ, đã lập được những chiến công rực rỡ, ghi vào lịch sử kháng chiến vĩ đại của dân tộc những trang sử oanh liệt nhất, được bạn bè quốc tế, quân đội và nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình trên thế giới khâm phục, đánh giá cao. Tuy nhiên, khi Bác nghe phản ánh về một số cán bộ, chiến sĩ ra đường không được chỉnh tề như đội mũ lệch, cúc áo không cài tử tế, cưỡi xe bình bịch lượn chơi phố, đánh “tú lơ khơ” ngoài đường để đồng bào nhầm tưởng là đánh bạc. Bác cho rằng, những chú ý đó của đồng bào là đúng, vì đồng bào muốn quân đội của mình phải gương mẫu về mọi mặt, không những chiến đấu dũng cảm, mà cần phải có thái độ nghiêm trang, để cho thế giới đều thấy rằng “Quân đội Cụ Hồ có khác”. Lời dạy của Bác có ý nghĩa sâu sắc, là sự nhắc nhở, chỉ bảo ân cần và sát sao đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nghiêm túc trong sinh hoạt cũng như tác phong ăn mặc để xứng đáng với danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ” mà nhân dân đã tin tưởng, yêu mến và trao tặng.

Lời dạy của Bác vẫn vẹn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, góp phần định hướng quan trọng trong nhận thức, tư tưởng và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ, quyết tâm thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Hiện nay, Quân đội ta tiếp tục đẩy mạnh xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Thấm nhuần lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần thường xuyên thực hiện việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, phong trào thi đua Quyết thắng, các cuộc vận động của các cấp, các ngành… Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh phải luôn giữ vững phẩm chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ”, giữ vững tư thế, tác phong quân nhân; từ lời nói đến hành động phải thể hiện sự chân thành, khiêm tốn, yêu thương, kính trọng, lễ phép trước nhân dân, thật sự coi nhân dân là “cha mẹ” của quân đội. Tuyệt đối không được sách nhiễu, gây phiền hà cho dân, không làm điều gì tổn hại đến tình cảm mật thiết và mối quan hệ gắn bó máu thịt quân dân, thực hiện quân với dân một ý chí, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu như Bác Hồ thường căn dặn. Kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện vi phạm kỷ luật trong quan hệ quân dân, phê phán các hiện tượng thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm với nhân dân.

Ngày 20 tháng 11

Đoàn kết là sức mạnh. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đoàn kết chặt chẽ xung quanh Trung ương[20].

Đây là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện tại “Hội nghị cán bộ trung, cao cấp quân đội”, tháng 11 năm 1956.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn chăm lo xây dựng sự đoàn kết thống nhất cho toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn quân và đoàn kết với nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Rất nhiều những bài viết, bài nói chuyện của Người với đồng bào, đồng chí, với bạn bè, anh em Bác đều căn dặn, nhắc nhở phải giữ gìn sự đoàn kết và khẳng định đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là chìa khoá của mọi thành công. Trong đó, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng nói chung, đoàn kết trong Trung ương nói riêng luôn được Người coi là vấn đề quan trọng, mang ý nghĩa sống còn để giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng.

Lời căn dặn trên của Bác có ý nghĩa sâu sắc, vì Người đã sớm nhận thấy vai trò to lớn, ý nghĩa sống còn của vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong Trung ương và khẳng định đây chính là nguồn gốc của sức mạnh, là then chốt của mọi thành công. Thực tiễn chứng minh, bằng sức mạnh đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong Trung ương, Đảng đã lãnh đạo toàn dân và toàn quân ta đấu tranh giành thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nói một cách khác, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và Trung ương là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh và sự cần thiết phải giữ gìn sự đoàn kết vẫn giữ nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Thực hiện lời dạy của Bác, đoàn kết thống nhất trong Đảng nói chung và Ban Chấp hành Trung ương nói riêng phải trên cơ sở thấu triệt chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, đúng đắn của Đảng. Luôn nhất quán với mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; quyết tâm xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh để quy tụ mọi tổ chức đảng, đảng viên và quần chúng nhân dân xung quanh Đảng và Ban Chấp hành Trung ương tất cả vì mục tiêu cao đẹp đó. Thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thực hiện nghiêm chỉnh chế độ quy định về tự phê bình và phê bình trong Đảng; thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu thực tiễn đòi hỏi. Đối với Quân đội ta, thấm nhuần lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải xây dựng sự đoàn kết thống nhất ngay từ trong các cơ quan, đơn vị nơi mình công tác, từ cấp ủy, chi bộ đến Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; toàn quân đoàn kết, thống nhất một lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Ngày 21 tháng 11

… Kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ, gian khổ, tự lực cánh sinh.[21].

Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong “Thư gửi quân và dân Tây Bắc”, ngày 21 tháng 11 năm 1953, Báo Nhân dân, số 149, từ ngày 21 đến 25 tháng 11 năm 1953.

Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có sự thay đổi lớn có lợi cho ta, các đại đoàn chủ lực ra đời, liên tục giành thắng lợi lớn trên các chiến trường, đặc biệt các chiến dịch quan trọng như Chiến dịch Biên giới (1950), Chiến dịch Tây Bắc (1952)… làm phá sản âm mưu của thực Pháp hòng chia rẽ dân tộc bằng “xứ Thái tự trị”, “xứ Nùng tự trị” giải phóng một vùng Tây Bắc nối liền với Việt Bắc tạo thành thế liên hoàn có lợi cho kháng chiến. Ngày 20 tháng 11 năm 1953, thực dân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, mở đầu giai đoạn chiếm đóng vùng đất xứ Thái Tây Bắc Việt Nam. Ngay ngày hôm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư động viên, căn dặn quân dân cả nước nói chung, quân dân Tây Bắc nói riêng đề cao cảnh giác, đoàn kết nhất trí một lòng xây dựng lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp chuẩn bị cho cuộc quyết chiến chiến lược đánh bại thực dân Pháp xâm lược.

Thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã nêu cao ý chí tự lực, tự cường vừa chiến đấu, vừa sản xuất, xây dựng lực lượng góp phần vào chiến thắng đông xuân 1953 – 1954, mà đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ (07/5/1954) chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. Tinh thần đó tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy, tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, làm nhiệm vụ quốc tế cao cả và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Thấu triệt lời Bác dạy, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng và trung thành với sự lãnh đạo “Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng Cộng sản Việt Nam, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tích cực học tập, quán triệt và thấm nhuần lời dạy của Bác, luôn đề cao cảnh giác, tự lực, tự cường, đoàn kết thống nhất, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình đội mọi mặt, chiến đấu anh dũng, chấp nhận hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, tô thắm truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng”, xứng đáng với niềm tin yêu và danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” mà nhân dântin tưởng, yêu mến trao tặng.

Ngày 22 tháng 11

Anh hùng thật là những người bất cứ việc to việc nhỏ, luôn luôn cố gắng, vượt qua khó khăn, làm tròn nhiệm vụ[22].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài “Anh hùng giả và anh hùng thật”, đăng trên Báo Nhân dân, số 149, từ ngày 21 đến ngày 25 tháng 11 năm 1953.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác thi đua – khen thưởng, phát hiện, cổ vũ, động viên, phát huy và nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến, các anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động… để nhân lên cái đẹp, đẩy lùi cái xấu, góp phần hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Bác đã dạy: “Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống” và “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Thấu triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác thi đua – khen thưởng, xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến, tôn vinh các anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động có sức lan tỏa sâu rộng, tạo nên động lực, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thi đua hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ cách mạng. Từng thời kỳ, từng giai đoạn, đều xuất hiện nhiều tấm gương người tốt, việc tốt, những anh hùng tiêu biểu mẫu mực về nỗ lực vượt mọi khó khăn, gian khổ, nói đi đôi với làm, nói ít là nhiều, làm có hiệu quả, không quản ngại hy sinh, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của tập thể lên trên, lên trước, sống nghĩa tình, thủy chung… được mọi người tôn vinh, học tập và noi theo.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tích cực hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, các phong trào của các cấp, các ngành và đã cụ thể hóa thành phong trào thi đua Quyết thắng được triển khai sâu rộng và được cán bộ, chiến sĩ toàn quân, lực lượng dân quân tự vệ tích cực hưởng ứng thực hiện với quyết tâm chính trị và trách nhiệm cao. Toàn quân luôn tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Toàn quân đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân anh hùng tiêu biểu tinh thần vượt mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” nhân dân tin tưởng, yêu mến trao tặng.

Ngày 23 tháng 11

 … Noi gương oanh liệt của Khởi nghĩa Nam bộ, chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ và kháng chiến mạnh mẽ lên mãi để phá âm mưu của giặc: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước, giành độc lập và thống nhất thực sự cho Tổ quốc[23].

Đây là lời căn dặn, nhắc nhở của Bác viết trong “Thư gửi cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ”, ngày 23 tháng 11 năm 1951, nhân kỷ niệm Ngày Khởi nghĩa Nam Bộ (23/11/1940).

Cuộc khởi nghĩa Nam Bộ ngày 23 tháng 11 năm 1940 tuy không thành công, nhưng đã để lại tấm gương oanh liệt, thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của đồng bào các tỉnh Nam Bộ trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Đặc biệt là Lời căn dặn, nhắc nhở của Bác trong thời điểm này như tiếp thêm sức mạnh, cổ vũ động viên cán bộ, chiến sĩ cả nước nói chung, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ nói riêng trường kỳ kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng đất nước.

Thấm nhuần lời nhắc nhở của Bác, với tinh thần và ý chí quật cường, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ tiếp tục đứng lên, cùng với đồng bào và chiến sĩ cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đánh đuổi đế quốc Mỹ, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Thực tế đã chứng minh, dù bất luận trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ cùng với quân và dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã anh dũng chiến đấu đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng quê hương, thống nhất nước nhà và bảo vệ toàn vẹn độc lập, tự do của Tổ quốc, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Nam bộ thành đồng, đi trước về sau”.

Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động; tình hình Biển Đông luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cơ hội và thách thức vẫn đan xen các thế lực thù địch gia tăng thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền… để can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung, quân và dân Nam bộ nói riêng không ngừng mài sắc cảnh giác, phát huy cao độ nội lực, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững và tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân và Quân đội các nước theo truyền thống của Đảng, của dân tộc và của Quân đội ta; kết hợp sức mạnh thời đại, tạo dựng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Học tập và làm theo lời căn dặn của Bác Hồ năm xưa, Quân đội nhân dân Việt Nam phải chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thế trận quốc phòng – an ninh vững chắc, nâng cao tiềm lực quốc phòng. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, chất lượng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng – an ninh – kinh tế – đối ngoại. Chú trọng xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng trên tuyến biên giới, vùng sâu, vùng xa, tạo thế trận quốc phòng – an ninh bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ở các địa bàn chiến lược. Tổ chức các lực lượng vũ trang hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới. Tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.

Ngày 24 tháng 11

          “Nếu chính quyền biết lãnh đạo và khuyến khích, khen cái nên khen, thưởng việc nên thưởng, thì không những người lớn mà các trẻ em cũng hăng làm việc có lợi”[24].

Đây là 1/5 việc nhỏ, ý nghĩa to trong bài viết “Việc nhỏ, ý nghĩa to” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng báo Nhân dân, số 272, ngày 24 tháng 11 năm 1954, với bút danh “C.B”.

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành nhiều thắng lợi mới; trong đó vai trò của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với việc đoàn kết, tập hợp quần chúng nhân dân chung sức, đồng lòng, tận tâm, tận lực phấn đấu vì sự nghiệp chung có ý nghĩa rất quan trọng. Để làm được điều đó, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, có phương pháp vận động, khích lệ quần chúng bằng những chính sách, nhiệm vụ cụ thể, thiết thực và biết làm tốt công tác khen thưởng, xử phạt đúng như những chỉ dẫn trong bài viết “Việc nhỏ, ý nghĩa to” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Có thể khẳng định rằng, những thành tựu to lớn của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với vai trò của cấp ủy, chính quyền, nhất là của đội ngũ cán bộ, trong đó phải nói tới phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc và rèn luyện phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc mới theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh. Phần đông cấp ủy, chính quyền các cấp và đội ngũ cán bộ có phong cách lãnh đạo ngày càng sâu sát cơ sở, làm việc một cách khoa học, dựa trên trình độ học vấn ngày càng cao và chuyên sâu công việc, năng động sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nhiều cán bộ đã thực hành tốt nói đi đôi với làm và nêu gương trước cấp dưới, được quần chúng khen ngợi. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc. Đáng lưu ý là có một số ít cán bộ có chức, có quyền cao còn biểu hiện quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, hách dịch, xa dân. Một số cán bộ coi thường tính đảng, tính nguyên tắc trong công việc, lấy yêu cầu năng động, sáng tạo để che đậy cho những việc làm sai trái; một số cán bộ đã biến lối làm việc tập thể, cá nhân phụ trách thành “cá nhân phụ trách, tập thể chịu trách nhiệm” khi có sai phạm xảy ra, gây bức xức trong dư luận cần phải sớm khắc phục.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội luôn đề cao và chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ Quân đội, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, điều hành, quản lý của chỉ huy các cấp; thường xuyên làm tốt công tác thi đua, khen thưởng và giữ nghiêm kỷ luật tự giác, nghiêm minh… đã động viên được cán bộ, chiến sĩ từ người sĩ quan cấp tướng đến chiến sĩ binh nhì đều nêu cao trách nhiệm, tận tâm, tận lực, đoàn kết cùng nhau khắc phục khó khăn, nỗ lực trong thực hiện nhiệm vụ, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Ngày 25 tháng 11

 “Mỗi người yêu nước đều phải làm tuyên truyền. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động của chúng ta có thể là một công tác tuyên truyền”[25].

Đây là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Tuyên truyền”, đăng Báo Nhân dân, số 273, ngày 25 tháng 11 năm 1954, với bút danh “C.B”.

Là một bộ phận của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền có vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, cũng như công tác xây dựng Đảng, nhằm phổ biến, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng, các sự kiện thời sự lớn của đất nước và quốc tế, những vấn đề mới đặt ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…; qua đó, góp phần xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan, lý tưởng sống, nhận thức chính trị, niềm tin, tình cảm cách mạng, hướng dẫn hành động, phát huy vai trò làm chủ, tính tích cực, tự giác, sáng tạo, động viên, cổ vũ, khích lệ cán bộ, đảng viên và quần chúng ra sức thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ cách mạng… Đồng thời, công tác tuyên truyền còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh, phản bác có hiệu quả trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, chống phá cách mạng Việt Nam và tham gia phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc, tiêu cực nảy sinh trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Công tác tuyên truyền là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên giữ vai trò nòng cốt; song điều quan trọng nhất ở mỗi cán bộ tuyên truyền là phải có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng; luôn nói, viết, làm đúng nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành nghiêm quy chế, quy định về cung cấp thông tin, phát ngôn; tiêu biểu về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác thì công tác tuyên truyền mới đạt được mục đích, yêu cầu đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống” và “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, công tác tuyên truyền được cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, với nhiều cách làm sáng tạo, góp phần nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin, niềm vinh dự, tự hào về truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng, về danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” và phát huy cao độ bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, ý thức, trách nhiệm, trí tuệ, tài năng, sức sáng tạo to lớn của cán bộ, chiến sĩ toàn quân, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Ngày 26 tháng 11

“Nhờ ai ta có hòa bình?

Nhờ người chiến sĩ quên mình vì dân”[26].

Câu thơ trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nhờ ai ta có hòa bình”, báo Nhân dân, số 273, ngày 26 tháng 11 năm 1954, bút danh “C.B”.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 là thắng lợi to lớn nhất của quân đội và nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thắng lợi này đã tạo một bước ngoặt quan trọng trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt cuộc sự đô hộ của thực dân Pháp; miền Bắc được giải phóng, bắt tay vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo cơ sở, hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khắc ghi công ơn to lớn của hàng triệu anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì nghĩa vụ quốc tế cao cả và cuộc sống độc lập tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Ngày 27 tháng 11

… Các chú đã đánh bật giặc ra khỏi Lào Cai. Bác vui lòng thay mặt Chính phủ khen ngợi các chú. Sau đây là những việc cần phải làm ngay: …Thực hành chính sách toàn dân đại đoàn kết[27].

Đây là lời 1/6 việc quan trọng cần phải làm ngay theo chỉ huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi chiến sĩ và cán bộ Lào Cai”, ngày 27 tháng 11 năm 1950, Báo Sự thật, số 151, ngày 27 tháng 11 năm 1950.

Tháng 9 năm 1950, phối hợp với bộ đội chủ lực của ta trong chiến dịch Biên giới, quân dân Lào Cai đã chiến đấu kiên cường lần lượt giải phóng các địa phương trong tỉnh. Ngày 01 tháng 11 năm 1950 thị xã Lào Cai (nay là thành phố Lào Cai) sạch bóng quân thù, chiến dịch Lê Hồng Phong II kết thúc thắng lợi, Lào Cai hoàn toàn được giải phóng. Với chiến công to lớn của quân dân Lào Cai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới chiến sĩ và cán bộ Lào Cai để động viên, khen ngợi và khích lệ kịp thời chiến thắng của chiến sĩ và nhân dân các dân tộc Lào Cai; Người đặc biệt quan tâm việc thực thi chính sách đại đoàn kết toàn dân.

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, trọng nhân nghĩa, khoan dung, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người con đất Việt, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta vượt lên mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.

Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng.

Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, Đảng bộ, chính quyền, đồng bào các dân tộc, lực lượng vũ trang tỉnh và các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn Lào Cai đã quán triệt và thực hiện nghiêm chính sách đại đoàn kết các dân tộc, giữ vững mối quan hệ gắn bó máu thịt quân với dân, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn. Quan tâm công tác đối ngoại nhân dân, xây dựng Lào Cai trở thành địa phương giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng, an ninh, trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh ở khu vực biên cương của Tổ quốc.

Ngày 28 tháng 11

          “… Chỉ có hai hạng người không mắc khuyết điểm: là đứa bé còn ở trong bụng mẹ và người đã chết bỏ vào quan tài. Có hoạt động thì khó tránh khỏi khuyết điểm. Nhưng khi có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình, hoan nghênh người khác phê bình và kiên quyết sửa chữa[28].

Là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói tại Hội nghị nghiên cứu Lịch sử Đảng của Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 28 tháng 11 năm 1959, Báo Nhân dân, số 2093, ngày 09 tháng 12 năm 1959.

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền, miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới, miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Đây cũng là thời điểm Đảng và Chính phủ, các cấp và các ngành từ Trung ương đến địa phương tiến hành công tác sửa sai trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc một cách kiên quyết và toàn diện, trên tinh thần đề cao, thật thà tự phê bình và phê bình để nghiêm túc khắc phục, sửa chữa khuyết điểm.

Trong sinh hoạt và hoạt động thực tiễn, mỗi con người và mỗi tổ chức đều có những ưu điểm và khuyết điểm, có mặt thuận lợi và khó khăn, có nhân tố tích cực và tiêu cực, có cái tiến bộ và cái lạc hậu. Quá trình phát triển của mỗi con người, mỗi tổ chức như thế nào và theo chiều hướng nào phụ thuộc chính vào cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt tốt – xấu, thuận lợi – khó khăn, tích cực – tiêu cực đó. Mỗi người đảng viên và tổ chức đảng cũng như vậy; muốn tiến bộ và phát triển thì phải phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm. Muốn sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, phải đề cao và thật thà tự phê bình và phê bình.

Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, trong suốt quá trình xây dựng và hoạt động, Đảng ta luôn coi trọng tự phê bình và phê bình; coi đó là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và là ý thức trách nhiệm của Đảng với nhân dân. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng để giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vấn đề tự phê bình và phê bình càng trở nên cần thiết hơn.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đặc biệt là giáo dục về đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu rõ vai trò, sự cần thiết phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, mục đích phương pháp tự phê bình và phê bình; duy trì, thực hiện nghiêm túc nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy đảng, các tổ chức trong đơn vị. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất cao trong đơn vị, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, cục bộ bè phái, mất đoàn kết. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm cán bộ, chiến sĩ vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 29 tháng 11

“Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân”[29].

Đây là khẳng định của Chủ tịch Hồ chí Minh trong thư gửi Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc, Người viết tháng 11 năm 1949.

Giai cấp nông dân là một lực lượng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định những đóng góp to lớn của nông dân đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nắm vững vai trò và khả năng cách mạng của giai cấp nông dân nước ta, Đảng ta đã có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn và sáng tạo ra phương pháp cách mạng thích hợp với khả năng và truyền thống cách mạng của nông dân nước ta. Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng, liên minh công nông đã làm cho uy tín và sức mạnh của giai cấp công nhân vượt xa số lượng; làm cho giai cấp nông dân phát huy mạnh mẽ truyền thống và khả năng cách mạng của mình; là cơ sở củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; là nền tảng vững chắc để xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân; là cơ sở để xây dựng quân đội nhân dân; là điều kiện cần thiết để chuyển cách mạng dân tộc dân chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò quan trọng của nông dân đối với cách mạng Việt Nam, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26 – NQ/TW “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” với quan điểm: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước… Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đàm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân.

Ngày 30 tháng 11

          “… Chính sách đúng là nguồn gốc thắng lợi[30].

Đây là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu cho bài viết “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay”, đăng trên Báo Sự thật, số 103, dưới bút danh X.Y.Z, ngày 30 tháng 11 năm 1948.

          Lúc này, phong trào cách mạng thế giới đang phát triển mạnh mẽ, ở trong nước cuộc kháng chiến kiến quốc đang được củng cố và phát triển dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, quân và dân ta vừa giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Việt Bắc đã góp phần cổ vũ toàn dân, toàn quân hăng hái tham gia kháng chiến.

          Thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ và quân đội nghiên cứu, đề ra các chính sách đúng, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, đồng thời phải tổ chức thực hiện nghiêm túc các chính sách đó trong mọi điều kiện hoàn cảnh; tổ chức sự kiểm tra chu đáo, chặt chẽ việc triển khai thực hiện ở các cấp, các ngành, các đơn vị, địa phương. Từ đó, đã thu hút được đông đảo các lực lượng tham gia kháng chiến, từ tầng lớp trí thức đến người dân lao động với tất cả của cải vật chất, ý chí, tinh thần, nghị lực đã tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn.

          Trong tình hình hiện nay, với đường lối, chủ trương lãnh đạo đúng đắn của Đảng, chính sách, pháp luật phù hợp của Nhà nước đã đưa đất nước ta đạt được những thành tựu bước đầu có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước vẫn gặp phải sự chống phá của các thế lực thù địch, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một số bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ nạn tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân… đã ảnh hưởng đến việc thực hiện không đúng các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện lời dạy của Bác có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để Đảng, Nhà nước và Quân đội tiếp tục xây dựng chính sách đúng, phù hợp và thực hiện nghiêm túc ở các cấp, góp phần vào thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

          Đối với Quân đội ta càng phải thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác để quán triệt, thực hiện nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách đối với người có công, chính sách hậu phương quân đội, đồng thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có những chính sách đúng, phù hợp với tình hình phát triển của thế giới, khu vực và trong nước. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trên cương vị chức trách của mình, phải nêu cao tinh thần học tập và quán triệt sâu sắc lời dạy của Bác bằng những việc làm và hành động thiết thực, hiệu quả, tuyên truyền vận động nhân dân địa phương nơi đóng quân thực hiện tốt các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Ngày 01 tháng 12

Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp; phải hết lòng giúp đỡ thanh niên, làm cho văn nghệ nước nhà ngày càng thêm trẻ thêm xuân[31].

Đây là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, ngày 01 tháng 12 năm 1962, đăng trên Báo Nhân dân, số 3173, ra ngày 02 tháng 12 năm 1962.

Là người đặt nền móng cho nền văn học nghệ thuật cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã có công xây dựng một nền văn nghệ mới, thường xuyên sâu sát và có những lời chỉ bảo tận tình, cần thiết cho đội ngũ những người làm công tác văn hóa văn nghệ, đặc biệt là các anh chị em nghệ sĩ. Lời căn dặn của Bác rõ ràng, dễ hiểu nhưng là bài học sâu sắc, tinh tế có giá trị định hướng cụ thể về nhận thức, tư tưởng và hành động nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, mài sắc ý chí chiến đấu cho những người cầm bút.

Thực hiện lời Bác dạy, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hàng chục ngàn văn nghệ sĩ đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đến với tiền tuyến lớn, lăn lộn trên các chiến trường đầy khói lửa và có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới đất nước, đội ngũ văn nghệ sĩ nước nhà tiếp tục phát huy tài năng sáng tạo của mình, thật sự hòa mình vào cuộc sống lao động sản xuất, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phấn đấu có nhiều tác phẩm xuất sắc, xứng đáng với tầm vóc của cách mạng, với dân tộc Việt Nam.

Hiện nay, lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn nhằm động viên văn nghệ sĩ cả nước bồi dưỡng cái tâm và cái tài, khám phá, sáng tạo nên nhiều tác phẩm hay và tốt phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến đội ngũ văn nghệ sĩ – những người chiến sĩ tiên phong trên mặt tư tưởng, văn hóa của Đảng và đã xác định rõ trách nhiệm của lực lượng này là cần phải nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng giáo dục, xây dựng con người; tích cực cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn…  Thấm nhuần lời dạy của Bác, mỗi văn nghệ sĩ trong Quân đội cần ra sức học tập nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống nhằm không ngừng tự hoàn thiện bản thân; đi sâu bám sát mọi hoạt động của bộ đội, phấn đấu sáng tạo nên nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị đáp ứng kịp thời nhu cầu thẩm mỹ của bộ đội, góp phần tô thắm thêm phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Ngày 02 tháng 12

Bộ đội phải kính trọng dân, giúp đỡ dân. Dân phải thương yêu bộ đội, ủng hộ bộ đội. Quân và dân phải luôn luôn đoàn kết nhất trí[32].

          Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong thư “Gửi toàn thể cán bộ và chiến sĩ Đường số 4 cùng dân quân du kích và đồng bào trong miền Đường số 4”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 1411, ra ngày 02 tháng 12 năm 1949.

  Là người trực tiếp tổ chức thành lập, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng quân đội trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Trong đó, giữ gìn mối quan hệ đoàn kết quân dân luôn được Người quan tâm đặc biệt, thường xuyên nhắc nhở, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Lời căn dặn của Bác ngắn gọn nhưng sâu sắc, là sự nhắc nhở ân cần về trách nhiệm, nghĩa vụ và tình cảm của quân đội đối với nhân dân. Thấm nhuần lời căn dặn của Hồ Chủ tịch, hơn 60 năm qua, những thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã kế tiếp chăm lo xây dựng, giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp, đoàn kết quân dân; gắn bó máu thịt với nhân dân, hết lòng thương yêu dân, quý trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân; ngược lại, nhân dân cũng hết lòng yêu thương, đùm bọc, chăm sóc, giúp đỡ quân đội. Trong thời chiến cũng như trong thời bình, trong khó khăn cũng như hoạn nạn, mối quan hệ quân dân “cá – nước”, đoàn kết gắn bó keo sơn đó đã phát huy được sức mạnh hiệu quả của nó, làm cho tình đoàn kết giữa nhân dân và quân đội ngày càng thêm bền vững.

Hiện nay, trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực, trong nước, trước những tác động của điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là những tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, của quá trình hội nhập quốc tế, cũng như sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn, biện pháp hết sức thâm độc nhằm chia rẽ quân đội với nhân dân, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân, tiến tới làm suy yếu, vô hiệu hóa sức mạnh chiến đấu của quân đội. Lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, góp phần quan trọng định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết với nhân dân.

Thực hiện tốt lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội phải luôn có ý thức sâu sắc về nghĩa vụ, trách nhiệm và tình cảm đối với nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua rèn luyện phẩm chất cao đẹp “Bộ đội cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Ra sức thực hiện lời dạy của Bác về “Dân vận khéo”, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quan hệ chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền, nhân dân địa phương nơi đóng quân, tăng cường các hoạt động giao lưu, kết nghĩa giữa đơn vị quân đội với địa phương; tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế – xã hội, góp phần vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa mới; đặc biệt, luôn chủ động, dũng cảm, kịp thời giúp dân phòng, chống thiên tai, bão lũ, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn…

Ngày 03 tháng 12

Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa[33].

Lời căn dặn trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, ngày 03 tháng 12 năm 1945, đăng trên Báo Cứu quốc, số 108, ra ngày 04 tháng 12 năm 1945.

Đây là thời điểm nước ta vừa mới giành được nền độc lập, phải thực hiện nhiều nhiệm vụ cấp bách như: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm, mở rộng quan hệ với các nước tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam… Lời căn dặn của Bác có ý nghĩa sâu sắc, là sự nhắc nhở ân cần đối với đồng bào các các dân tộc hãy xóa bỏ mọi bất hòa, thành kiến, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà để bảo vệ nền độc lập đã giành được.

Hiện nay, các thế lực thù địch đang quyết liệt thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, kích động ý thức về tộc người và lợi dụng sự chênh lệnh về trình độ phát triển giữa các dân tộc để tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị, là nền tảng lý luận cho chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta; định hướng, dẫn dắt cho hoạt động thực tiễn nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc trong tình hình mới. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.  Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc…

Hơn 70 năm qua, bằng những việc làm thiết thực như tham gia phát triển kinh tế – xã hội, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, phòng chống thiên tai, bão lũ, hỏa hoạn, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bài trừ hủ tục mê tín, dị đoan, tệ nạn xã hội… Quân đội ta đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn mới, phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội nguyện kề vai sát cánh với đồng bào các dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng miền núi, vùng các dân tộc ngày càng vững mạnh, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cùng với đồng bào các dân tộc và nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 04 tháng 12

Khi phải đương đầu với kẻ địch hung ác, một dân tộc dù bé nhỏ, nếu luôn luôn cảnh giác, đoàn kết nhất trí, kiên quyết và bền bỉ đấu tranh, thì cuối cùng nhất định thắng lợi[34].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Ủng hộ Cuba chống đế quốc Mỹ”, bút danh “T.L”, đăng trên Báo Nhân dân, số 3175, ra ngày 04 tháng 12 năm 1962.

 Đây là thời điểm nhân dân Cuba vừa giành được nền độc lập và tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời chịu sự bao vây, chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ hòng ngăn chặn, xóa bỏ tiền đồn chủ nghĩa xã hội ở Tây bán cầu. Lời của Bác như một chân lý, một lời hiệu triệu, cổ vũ động viên phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Cuba hãy tin tưởng vào cuộc chiến tranh chính nghĩa của mình, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội và dù là một dân tộc nhỏ bé, nhưng nếu luôn cảnh giác, đoàn kết nhất trí, kiên quyết và bền bỉ đấu tranh, thì cuối cùng nhất định thắng lợi.

Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam, với thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đã chứng minh một chân lý của thời đại: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nhưng luôn có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, được nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới đồng tình ủng hộ thì nhất định sẽ đánh bại bất kỳ kẻ thù xâm lược nào… Tiếp đó, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta lại một lần nữa tiếp tục khẳng định và làm sáng tỏ hơn chân lý trên.

Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Gần 60 năm đã trôi qua, lời của Bác đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, góp phần cổ vũ động viên các dân tộc dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc; lạc quan, tin tưởng thực hiện thắng lợi công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Thực hiện lời dạy của Bác, Quân đội ta phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng cao cả của Đảng, của giai cấp, của dân tộc, là vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với quân đội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội cần nâng cao tinh thần cảnh giác, nhận thức sâu sắc đối tượng, đối tác của cách mạng, đối tượng tác chiến của quân đội trong thời kỳ mới; ra sức thi đua huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, sẵn sàng chiến đấu cao, quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 05 tháng 12

Việc to cũng như việc nhỏ. Đảng và Chính phủ ta đều lo phục vụ lợi ích của nhân dân[35].

Lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Cần phải nâng cao chất lượng hàng hóa”, bút danh “T.L”, đăng trên Báo Nhân dân, số 3176, ra ngày 05 tháng 12 năm 1962.

Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (1961-1965) nhằm không ngừng phát triển kinh tế – xã hội để trở thành hậu phương lớn chi viện cho chiến trường miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai ngụy quân, ngụy quyền giành thắng lợi, thống nhất đất nước.

Là người sáng sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, khai sinh ra Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc; Chính phủ là của dân, do dân và vì dân. Do vậy, Đảng và Chính phủ phải tôn chỉ mục đích duy nhất là giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, giải phóng nhân dân khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, phục vụ nhân dân từ việc to cho đến việc nhỏ. Lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo năng lực lãnh đạo của Đảng, điều hành của Chính phủ.

          Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ công khai mục đích hoạt động của Đảng ta, của Chính phủ ta trước quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế, thể hiện sâu sắc, đúng đắn tính giai cấp, tính tiền phong, trí tuệ, đạo đức và tính quần chúng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền tự Trung ương đến cơ sở. Đồng thời, đây còn là tư tưởng chỉ đạo để Đảng và Nhà nước ta luôn hành động đúng tôn chỉ, mục đích, gắn bó mật thiết với nhân dân, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp, nhân dân lao động và của dân tộc lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

          Thấm nhuần lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp, mọi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân, không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân; ra sức phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa… Cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn thấm nhuần và thực hiện đúng điều Bác Hồ kính yêu đã căn dặn: Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt; với bộ đội, cán bộ các cấp luôn thân thiết như người chị, công bình như người anh, hiểu biết như người bạn, đồng cam, cộng khổ, chi ngọt, sẻ bùi với bộ đội trên tình thương yêu đồng chí, lúc thường cũng như lúc ra trận, thực hiện toàn quân một ý chí.

 

Ngày 06 tháng 12

Điều kiện trừ diệt địch quân phải là điều kiện nhân hòa. Trong hai phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hòa là phe ấy thắng. Chỉ phe nào vì chính nghĩa mà chiến đấu, phe ấy mới có đủ điều kiện nhân hòa[36].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Chiến đấu vì chính nghĩa”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 427, ra ngày 06 tháng 12 năm 1946.

Đây là thời điểm nước ta vừa mới giành được độc lập và chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Quan điểm xuyên suốt của Hồ Chí Minh là trong chiến tranh, không phải cứ nước lớn, đông dân, lắm quân, nhiều tiền, tiềm lực kinh tế, quân sự dồi dào, thì sẽ hình thành thế và lực mạnh hơn đối phương để giành thắng lợi. Vấn đề là phe nào “có đầy đủ điều kiện nhân hòa” là phe ấy thắng; tuy nhiên, để “có đầy đủ điều kiện nhân hòa”, thì phe ấy phải “vì chính nghĩa mà chiến đấu”. Lời dạy của Bác có ý nghĩa sâu sắc, phản ánh tư duy chiến lược trong xem xét, đánh giá so sánh đúng lực lượng địch và ta, làm cơ sở để hạn chế chỗ mạnh và khoét sâu chỗ yếu của chúng, bồi dưỡng và phát triển lực lượng của ta, nhằm tạo ra tình hình so sánh lực lượng có lợi cho ta, làm cho địch càng đánh càng yếu, ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng to. Thấm nhuần lời dạy của Bác, quân và dân ta đã tiếp thu, vận dụng thành công trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong tương lai, nếu chúng ta buộc phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thì cho dù kẻ thù có ưu thế về vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự nhưng yếu tố “nhân hòa” vẫn là cơ sở vững chắc tạo nên sức mạnh tổng hợp để quân và dân ta chiến thắng.

Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có những thuận lợi mới, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Lời dạy của Bác vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải thường xuyên coi trọng xây dựng, phát huy sức mạnh yếu tố “nhân hòa”, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong đó, cốt lõi nhất là phải ra sức củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ; chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc.

Thực hiện lời dạy của Bác, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong đó, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt; tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội; nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên vững mạnh; tăng cường mối quan quan hệ đoàn kết cán binh và đoàn kết quân dân; chủ động đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.

 

Ngày 07 tháng 12

“… chủ nghĩa đế quốc là như con “ác vàng” đã ngả về tây. Chủ nghĩa xã hội là như mặt trời mới mọc[37].

Lời khẳng định trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài viết “Ai mạnh hơn?”, đăng trên Báo Nhân dân, số 1368, ra ngày 07 tháng 12 năm 1957.

 Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kẻ thù lại thường xuyên chống phá, xuyên tạc làm cho một bộ phận nhân dân nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa xã hội, hoài nghi về tính hiện thực của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lời khẳng định của Bác có ý nghĩa sâu sắc, góp phần quan trọng định hướng nhận thức, tư tưởng, xây dựng niềm tin cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Hiện nay, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người và theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Hơn 60 năm đã trôi qua, lời khẳng định của Bác vẫn giữ nguyên giá trị,  đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong hoàn cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Để góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhận thức sâu sắc đối tác và đối tượng của cách mạng, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu, chất lượng huấn luyện, công tác, xây dựng nếp sống chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 08 tháng 12

Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân[38].

Đây là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 2 Trường Đại học nhân dân Việt Nam”, Người nói ngày 08 tháng 12 năm 1956.

Thấm nhuần tư tưởng mácxít và trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, Người đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người cụ thể. Đó là người nông dân, công nhân, nhà trí thức, các chiến sĩ, các cháu thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài… Bác cho rằng, tất cả đều là nhân dân và dưới bầu trời này, không gì quý bằng nhân dân; trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Lời khẳng định của Bác tuy ngắn gọn, nhưng vô cùng sâu sắc, mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ cách mạng.

Thực hiện lời dạy của Bác, hơn 60 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân nhằm phát huy vai trò và tập hợp rộng rãi lực lượng của quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhờ phát huy vai trò của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.

Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và quân đội trong tình hình mới, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải luôn nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân, về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng, tiêu chí phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; tăng cường mối quan hệ đoàn kết máu thịt quân dân, tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh; kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày 09 tháng 12

Khi phát triển Đảng cần phải chọn lọc rất cẩn thận, phải xem trọng chất lượng quyết không nên làm một cách ồ ạt, không nên tham nhiều[39].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Tiêu chuẩn của người đảng viên”, Báo Nhân dân, số 2093, ngày 09 tháng 12 năm 1959.

Là người sáng lập và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ  tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác phát triển Đảng bởi theo Người, đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta. Lời dạy của Bác có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần chỉ đạo, định hướng công tác phát triển đảng viên của Đảng đúng phương hướng, có chất lượng. Thấm nhuần lời dạy của Bác, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng và làm tốt công tác phát triển Đảng, thu hút được những người ưu tú, tiêu biểu nhất về phẩm chất, năng lực, trí tuệ trong giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và các thành phần xã hội khác. Nhờ đó, Đảng ta đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, đủ sức lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay, đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc phát triển Đảng đi đôi với củng cố tổ chức đã và đang được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong công tác xây dựng Đảng. Lời dạy của Bác vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, là kim chỉ nam định hướng đúng đắn cho toàn bộ công tác phát triển đảng viên của Đảng. Để thực hiện tốt lời dạy của Bác, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện tốt nhiều khâu, nhiều bước theo một qui trình chặt chẽ, nghiêm túc: từ tuyên truyền, giáo dục, tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đến giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức, trong đó khâu tạo nguồn, bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng; phải xác định và vận đúng đắn tiêu chuẩn đảng viên, đồng thời thực hiện tốt phương hướng phát triển Đảng; phát triển đảng viên phải tích cực, thận trọng, phát triển phải luôn đi đôi với củng cố Đảng và phải thực hiện tốt các bước phát triển Đảng…

Thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cấp ủy và tổ chức đảng trong Quân đội phải đặc biệt coi trọng công tác phát triển đảng viên, góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng cao, có số lượng hợp lý, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và Đảng bộ Quân đội, lãnh đạo toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân; đủ sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

 

Ngày 10 tháng 12

Đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động phải là những người xung phong gương mẫu trong mọi mặt sản xuất, công tác, học tập, đoàn kết[40].

Lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện với cán bộ và xã viên hợp tác xã Vĩnh Thành (Nghệ An)”, Người nói ngày 10 tháng 12 năm 1961.

Đây là thời kỳ miền Bắc nước ta thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (1961-1965) nhằm tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề đó, Bác đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, công tác. Lời dạy của Bác có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, giúp cho mỗi đảng viên, đoàn viên dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm. Thực hiện lời dạy của Bác, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước, nhiều đảng viên, đoàn viên đã phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu trong lao động sản xuất, chiến đấu và công tác; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám xông pha vào việc khó, dám đi đầu đến nơi gian khổ, dám lao vào những nơi hiểm nguy và không bị sa ngã trước mọi cám dỗ vật chất tầm thường… Qua đó, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, trước bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có nhiều thuận lợi, thời cơ và không ít thách thức, nguy cơ. Lời dạy của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của mỗi đảng viên, đoàn viên thanh niên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Để thực hiện tốt lời dạy của Bác đòi hỏi mỗi đảng viên, đoàn viên phải phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; khắc phục kịp thời mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị, với toàn thể xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội, nhất là những đảng viên, đoàn viên phải nêu gương trong học tập nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống, tác phong; nói và làm theo nghị quyết, gương mẫu chấp hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, nền nếp, chế độ quy định của cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình với tinh thần thẳng thắn, không “dĩ hòa vi quý”; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.

Ngày 11 tháng 12

Chúng ta thường than phiền không đủ thời giờ để làm việc và học tập. Đó là vì chưa biết quý trọng thời giờ, sắp đặt thời giờ cho hợp lý, còn lãng phí nhiều thời giờ[41].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Một phút đồng hồ”, đăng trên Báo Nhân dân, số 153, ra từ ngày 11 đến ngày 15 tháng 12 năm 1953.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – một tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời, trong bất kỳ vị trí, hoàn cảnh nào Bác luôn tiên phong, mẫu mực, giản dị và tiết kiệm. Bác thường căn dặn mọi người phải thực hành tiết kiệm; tiết kiệm sức lao động, tiền bạc, đặc biệt là tiết kiệm thời gian. Với Bác, đức tính tiết kiệm thời gian là rất quý báu, Người luôn quý trọng, sử dụng hiệu quả thời gian bằng cách chủ động bố trí, sắp xếp kế hoạch cụ thể, chi tiết và tác phong hiện đại, để sao cho không bị lãng phí thời gian một cách vô ích. Tiết kiệm thời gian của Bác không chỉ là tiết kiệm cho mình, mà còn không để lãng phí thời gian cho mọi người, không để người khác phải chờ đợi, phục vụ. Lời dạy của Bác là sự nhắc nhở sâu sắc, giúp cho mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị và mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân biết quý trọng thời gian của mình, qua đó nâng cao ý thức tiết kiệm thời gian, sử dụng thời giờ hợp lý bảo đảm công việc trôi chảy, nhanh chóng và góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hiện nay, trong bối cảnh đất nước ta đã và đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, “đi tắt, đón đầu”, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phấn đấu đưa nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Lời dạy của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, là bài học vô cùng quý giá cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong học tập, công tác và lao động sản xuất. Thực hiện tốt lời dạy của Bác đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân cần đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương của Bác về tiết kiệm và sử dụng hiệu quả thời gian, sắp xếp thời gian khoa học, hợp lý; tích cực thi đua lao động sản xuất, học tập, công tác, tranh thủ tận dụng triệt để thời gian, thời cơ thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như Bác hằng mong muốn.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta đều có thể tiết kiệm thời gian của mình, đó là phải xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cụ thể trên cơ sở nhiệm vụ được giao và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị đòi hỏi; phải phân bổ thời gian hợp lý, khoa học để thực hiện chương trình, kế hoạch được giao; khi làm việc bất cứ một việc gì phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, thực hiện giờ nào việc ấy để không bị lãng phí thời gian một cách vô ích; phải chủ động chuẩn bị tốt nội dung trước khi tiến hành tổ chức các hoạt động như sinh hoạt, hội họp, gặp mặt, hội thảo… Một con người hiện đại chính là biết quý trọng thời gian và cũng là biện pháp để chúng ta rèn luyện phẩm chất tốt đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa.

Ngày 12 tháng 12

          ” … Sau đây tôi có mấy lời dặn đồng bào và cán bộ ghi nhớ và làm cho đúng:        (1) Đoàn kết, thân ái giúp đỡ lẫn nhau. (2) Giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự. (3) Ra sức tăng gia sản xuất để mọi người được ấm no. (4) Hết sức trung thành với Tổ quốc và Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Còn đối với những người trước đây đã lầm đường theo giặc nếu trở về Tổ quốc thì Chính phủ sẽ khoan hồng.

          Cán bộ thì phải thật sự gần gũi giúp đỡ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.

          Chúc đồng bào và cán bộ mạnh khỏe và cố gắng”[42].

          Là nội dung Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, gửi lời hỏi thăm đồng bào và cán bộ tỉnh Lai Châu, Người viết ngày 12 tháng 12 năm 1953. Ngay sau ngày tỉnh Lai Châu được giải phóng; thể hiện lòng thương xót, đồng cảm với đồng bào trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp và Việt gian phản động áp bức, bóc lột. Đồng thời dặn dò, mong muốn đồng bào, cán bộ tỉnh Lai Châu phải ghi nhớ để luôn tin tưởng, thực hiện tốt đường lối của Đảng, chủ trương của Chính phủ, thi đua đoàn kết, thân ái; ra sức tăng gia sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân; tích cực giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự; cùng với đồng bào miền Bắc tích cực chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, xây dựng miền Bắc đi lên Chủ nghĩa xã hội, góp sức cùng cả nước đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

          Khắc sâu lời dạy của Bác, Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh Lai Châu hiện nay luôn tin tưởng tuyệt đối vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc anh em trong tỉnh, ra sức thi đua đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tiếp tục duy trì và triển khai đồng bộ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cùng với các địa phương trong cả nước, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

          Tiếp tục học tập và làm theo Bác, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang hôm nay, luôn nhất trí cao với với đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; yêu thương đồng chí đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

          Ngày 13 tháng 12

          “Tinh thần trách nhiệm là gì? Là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi, đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy, vv… là không có tinh thần trách nhiệm[43].

          Đó là lời của Bác Hồ trong Bài viết về “Tinh thần trách nhiệm” được đăng trên Báo Nhân dân số 36, ngày 13 tháng 12 năm 1951. Đây là năm đầu thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và nhất định thắng lợi” của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đề ra, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có một số biểu hiện tư tưởng thiếu cố gắng, làm chưa hết chức trách, nhiệm vụ, nói nhiều, làm ít; làm chưa đến nơi, đến chốn…, để kịp thời đấu tranh, khắc phục và làm cơ sở cho các tổ chức học tập, chỉnh đốn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài viết về tinh thần trách nhiệm.

          Thực hiện lời chỉnh huấn của Bác, trong thời điểm ấy, các tổ chức đảng đã tập trung tuyên truyền, giáo dục nâng cao tinh thần cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; nắm chắc tình hình, nhiệm vụ, chủ động khắc phục khó khăn, đoàn kết gắn bó với nhân dân, thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ giao phó, tạo tiền đề huy động sức mạnh của toàn dân tộc tích cực tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

          Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu ngày càng cao; đại đa số cán bộ đảng viên và quần chúng đều nêu cao vai trò trách nhiệm, thực hiện nghiêm quy định, quy chế làm việc của tổ chức, cơ quan, đơn vị; luôn thể hiện rõ tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm, tâm huyết, tận tụy với công việc. Cán bộ, chiến sĩ tích cực, tự giác trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật, pháp luật; chủ động, sáng tạo, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Tuy nhiên, cũng còn một số cán bộ đảng viên, quần chúng có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm, bớt xén giờ giấc, làm không đúng quyền hạn, chức trách, nói nhiều, làm ít; làm qua loa chiếu lệ… Đòi hỏi việc học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy về “Tinh thần trách nhiệm” không chỉ là yêu cầu, trách nhiệm chính trị đối với mọi cán bộ, đảng viên, mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với mọi tổ chức, cá nhân và mọi công dân yêu nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

          Ngày 14 tháng 12

          “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi. Đó là kết quả tất nhiên của chủ nghĩa cá nhân[44].

          Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Tác phẩm bàn về đạo đức cách mạng, Người viết tháng 12 năm 1958; thể hiện tính nghiêm túc tự phê bình và phê bình trước những sai lầm, khuyết điểm, trong việc làm ở Trung ương và ở địa phương, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, làm rạn nứt khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đặc biệt phê bình một số cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà có biểu hiện kiêu ngạo, tự cao tự đại, nói không đi với làm; không muốn người khác phê bình mình; không tự phê bình mình hoặc tự phê bình không trung thực…làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ cách mạng; từ đó chỉ ra yêu cầu phải chỉnh huấn, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng, nghiêm túc phê bình và nghe quần chúng phê bình để kiên quyết khắc phục khuyết điểm sai lầm.

          Thực hiện lời Bác Hồ dạy, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và toàn dân; kết hợp chặt chẽ việc nâng cao nhận thức về đường lối chủ trương của Đảng và Chính phủ với kiện toàn tổ chức, mở rộng dân chủ, động viên mọi người, mọi tầng lớp xã hội, nhận rõ đúng sai, tự giác phê bình, nghiêm túc sửa chữa khuyết điểm, xây dựng tinh thần đoàn kết toàn dân, chung sức chung lòng làm theo Đảng, theo Bác, thực hiện nhiệm vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa; hậu phương vững chắc cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.

          Gần 60 năm qua, Lời Bác dạy không những còn nguyên giá trị lịch sử mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đi đôi với đổi mới về chính trị, tăng cường xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; thực hiện đồng bộ các giải pháp, tập trung thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

          Cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ Quân đội thấm nhuần lời Bác Hồ dạy, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đi đầu trong đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng chỉnh đốn Đảng, ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”; trong bất cứ hòan cảnh nào cũng xứng đáng là lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

          Ngày 15 tháng 12

          “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang[45].

          Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm bàn về đạo đức cách mạng, được viết vào tháng 12 năm 1958; trong lúc toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang tập trung xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì có một số cán bộ, đảng viên của Đảng đã phai nhạt đạo đức cách mạng, biểu hiện kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại; lòng tham ham muốn danh lợi, địa vị cho riêng mình, không đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, không làm đúng với chính sách và nghị quyết của Đảng, lời nói không đi đôi với việc làm; xa rời quần chúng, không được quần chúng tin theo… đã trở ngại lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng.

          Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quan trọng của phẩm chất đạo đức đối với người làm cách mạng, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên được giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm, ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, để trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tuyệt đối trung thành với Đảng, quyết tâm suốt đời phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng; vì cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; thực hiện nghiêm chỉnh đường lối quan điểm, nghị quyết của Đảng, nêu cao tinh thần cách mạng; gương mẫu trong lối sống, sinh hoạt, lời nói đi đôi với việc làm, gặp việc khó không nản chí, đầu tầu làm trước để quần chúng noi theo, làm theo.

          Hiện nay, trước yêu cầu cao của nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; sự tác động từ mặt trái cơ chế thị trường, những tiêu cực trong đời sống xã hội; đặc biệt là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm… trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; qua đó càng làm cho Đảng ta nhận rõ hơn giá trị tư tưởng về Lời của Bác Hồ và vai trò, tầm quan trọng của đạo đức cách mạng đối với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

          Thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lời Bác Hồ dạy, cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ Quân đội phải nhận thức sâu vai trò tầm quan trọng về phẩm chất đạo đức cách mạng; thường xuyên tích cực học tập nâng cao năng lực, trình độ toàn diện; tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lòng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; quan tâm, gắn bó, kính trọng, giúp đỡ nhân dân; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cũng tỏa sáng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, xứng đáng là mẫu hình tiêu biểu con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

          Ngày 16 tháng 12

          “Chịu khó, chịu khổ: Muốn giữ vững tinh thần chiến đấu, muốn dẻo dai trong lúc tác chiến, ngay bây giờ bộ đội phải tập ăn uống kham khổ, chịu đựng sự thiếu thốn cho quen; tập đi bộ, tập đi nặng, làm việc tỉ mỉ… Chịu khó, chịu khổ là phương thuốc bổ cho tinh thần và lực lượng bộ đội[46].

Là lời Hồ Chủ tịch khuyên răn bộ đội, đăng trên báo Chiến thắng, tờ báo của Việt Nam Vệ Quốc đoàn, xuất bản tại Hà Nội, số 16 và 18 ngày 16 và ngày 18/12/1945.

          Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong thời điểm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, chiến sĩ phải tự phê bình nghiêm túc với bản thân để sửa chữa khuyết điểm; nêu cao tinh thần học tập, huấn luyện, rèn luyện về mọi mặt, nhất là sức khỏe phải dẻo dai, ý chí quyết tâm cao, tác phong sâu sát, tỉ mỉ, đoàn kết thống nhất cao, sẵn sàng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Thực hiện lời Bác Hồ dạy, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang nghiêm túc tự phê bình, chấn chỉnh, khắc phục những khuyết điểm, sai sót; kiên trì, nhẫn nại, nêu cao tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm sắt đá, đoàn kết một lòng, cùng với toàn Đảng, toàn dân chiến đấu thắng lợi, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và làm tròn nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, cùng với những tác động tích cực, xu thế quốc tế hóa và hội nhập quốc tế đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta thực hiện nhiệm vụ quân sự – quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Song mặt trái của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội,… đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn giữ vững và phát huy cao độ truyền thống “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, SSCĐ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện với tinh thần “Khổ luyện thành tài, miệt mài thành giỏi”, “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”; nêu cao tinh thần đoàn kết, chủ động khắc phục khó khăn, tự lực, tự cường, mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; xứng đáng là lực lượng chính trị đặc biệt, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, tiếp tục góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.

          Ngày 17 tháng 12

            “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong[47].

Là lời Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, đăng trên Tạp chí học tập, số 12 năm 1958; với nỗi day dứt, trăn trở trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân, không làm được cách mạng. Muốn có đạo đức mạng phải rèn luyện thường xuyên, bền bỉ trong mọi hoạt động thực tiễn; phải tỉ mỉ công phu mới có được phẩm chất đạo đức tốt và ngày càng được bồi đắp, nâng cao.

          Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, bằng sự cố gắng học tập, rèn luyện nghiêm túc, kiên trì, đạo đức cách mạng đã giúp cho cán bộ, đảng viên của Đảng luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, vững vàng trong mọi thử thách, khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại vẫn không lùi bước; khi gặp thuận lợi thành công vẫn giữ vững tinh thần khiêm tốn, không tự đắc, tự mãn, không kiêu ngạo, không kèn cựa thiệt hơn; một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

          Trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đã và đang xuất hiện tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống…, đang đặt ra yêu cầu cao đối với việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng đối với cán bộ đảng viên và quần chúng.

          Trước yêu cầu nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc, người quân nhân cách mạng phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc, mọi nơi, gắn với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, học tập và công tác hàng ngày. Quân nhân có chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu học tập, rèn luyện để trao dồi đạo đức cách mạng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trước sự tuyên truyền, kích động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, những tiêu cực xã hội, sự cám dỗ vật chất trong đời sống xã hội hiện nay, càng đòi hỏi quân nhân phải nghiêm túc, tự giác học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời; dù đang công tác trong quân đội hay xuất ngũ hoặc chuyển lĩnh vực công tác khác cũng phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, không ngừng phấn đấu giữ vững và phát huy hơn nữa phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.

          Ngày 18 tháng 12

          “Nhiệm vụ của Quân đội hiện nay là phải cố gắng tiến lên chính quy. Đây là nhiệm vụ mới. Không nên vì hòa bình mà xao lãng học tập[48].

Đó là lời dặn của Bác trong buổi nói chuyện trong tháng 12 năm 1954 với anh chị em, đại diện cho các đơn vị về tham dự cuộc duyệt binh sẽ diễn ra vào ngày 01 tháng 01 năm 1955 tại Thủ đô Hà Nội; Bác gửi lời thăm hỏi, biểu dương các cô, chú đã học khá, nhưng cần cố gắng hơn nữa. Bác căn dặn, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình có nhiều tư tưởng không đúng nảy sinh, phải ngăn chặn những tư tưởng ấy; phải cố gắng học tập về chính trị để nắm vững chính sách của Đảng, Chính phủ, để đi đúng đường lối của nhân dân và vươn lên làm chủ về kỹ thuật tiên tiến; phải quan tâm chăm lo sức khỏe; giữ nghiêm kỷ luật, thật thà đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ, thì mới nhanh chóng tiến lên chính quy, sẵn sàng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.

Trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân binh chủng, lực lượng; bảo đảm số lượng hợp lý; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ, cán bộ, chiến sĩ hôm nay luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, kiên định với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, chủ động nắm chắc tình hình, nhiệm vụ và âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đề cao cảnh giác; ra sức học tập, huấn luyện nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt; thuần thục về kỹ năng, kỹ thuật quân sự và chuyên môn, nghiệp vụ; tích cực tu dưỡng, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, đạo đức lối sống và tác phong quân nhân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Ngày 19 tháng 12

          “… Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

          Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ …”[49].

Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ta, ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cuối năm 1946, sau những nỗ lực đàm phán hòa bình giữa Việt Nam dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp bị thất bại; quan hệ Việt – Pháp ngày càng căng thẳng và có nguy cơ xảy ra chiến tranh. Với dã tâm thống trị Việt Nam của thực dân Pháp, từ ngày 16 đến 18/12/1946, tại nhiều nơi trên đất nước ta, quân đội thực dân Pháp đã gây ra nhiều vụ tàn sát đối với đồng bào ta; gửi hậu thư đòi yêu sách… và đe dọa hành động chiến tranh. Trước  tình hình đó, Ngày 18 và 19/12/1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.

          Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố vào tối ngày 19/12/1946, trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với ý chí quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” của cả dân tộc đã giúp cho Đảng, Chính phủ vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thành công.

          Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến viết cách đây hơn 70 năm được xem là một lời hịch của non sông – lời hiệu triệu lịch sử, là một văn kiện có tính chất cương lĩnh chính trị, quân sự có giá trị thời đại sâu sắc. Trong tình hình mới, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tiếp tục nêu cao tinh thần giác ngộ cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thi đua đóng góp công sức, trí tuệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với Quân đội ta, để thực sự là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phải thường xuyên quán triệt, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, ứng phó thắng lợi với mọi tình huống; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

          Ngày 20 tháng 12

           “Thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, chớ phô trương hình thức, chớ kiêu ngạo tự mãn. Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là học tập, lao động, sinh hoạt theo đúng đạo đức của thanh niên xã hội chủ nghĩa[50]“.

Là lời của Bác Hồ trong bài nói chuyện tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam, đăng Báo Nhân dân, số 2830, ngày 21 tháng 12 năm 1961. Nhân dịp đó, Bác đã gửi lời khen ngợi đến các lực lượng thanh niên đã tích cực thi đua thực hiện khẩu hiệu: “Đâu cần thanh niên có; việc gì khó, thanh niên làm” và mong thanh niên thực hiện cho kỳ được những nhiệm vụ chính mà Đại hội đã nêu, để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm nền tảng vững mạnh để hòa bình thống nhất nước nhà.

          Thực hiện lời dạy của Bác “Đâu cần thanh niên có; việc gì khó, thanh niên đi đầu”, các thế hệ đoàn viên, hội viên, thanh niên, đội viên thiếu niên và nhi đồng ở nước ta đã nỗ lực hết mình trong việc chung tay góp phần xây dựng miền Bắc vượt qua mọi khó khăn thử thách, đạt được nhiều thắng lợi hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sau này.

Ngày nay, vinh dự, tự hào và phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, Thanh niên Quân đội luôn nêu cao tinh thần chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trung thành, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức học tập, rèn luyện; thi đua rèn đức, luyện tài, vươn tới những đỉnh cao, làm chủ khoa học hiện đại. Đồng thời Thanh niên Quân đội luôn là lực lượng mẫu mực, đi đầu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; lực lượng xung kích trong phòng, chống có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.

          Ngày 21 tháng 12

          “Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân là một việc làm cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[51].

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi đồng bào Thị xã Phát Diệm và các xã Vĩnh Khang, Tam Cường, Diễn Liên, Liên Sơn, Người viết ngày 21 tháng 12 năm 1956; Báo Nhân dân đăng số 1024, ngày 24 tháng 12 năm 1956 nói về sự cố gắng trong việc thanh toán nạn mù chữ; khẳng định thắng lợi vẻ vang bước đầu trên mặt trận văn hóa; có thắng lợi đó là nhờ sự đoàn kết nhất trí, sự cố gắng rất nhiều của đồng bào và toàn thể cán bộ. Kết quả đó làm vẻ vang đồng bào các địa phương ấy và vẻ vang chung cho cả nước; sẽ giúp địa phương nói riêng, miền Bắc nói chung, đẩy mạnh công cuộc khôi phụ kinh tế, phát triển dân chủ… Đồng thời Bác Hồ khuyên dặn cán bộ và đồng bào tiếp tục cố gắng học thêm nữa, học mãi để tiến bộ mãi mãi..

           Trong giai đoạn hiện nay, lời Thư của Bác năm xưa vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng nước ta; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển; yêu cầu về giá trị văn hóa không chỉ có trình độ học vấn cao, mà đòi hỏi phải bồi dưỡng, xây dựng những chuẩn mực con người mới Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.  Đối với cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, không chỉ có đầy đủ những chuẩn mực chung về con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn phải thực sự tiêu biểu về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, phát huy cao độ phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, gắn bó đoàn kết mật thiết với nhân dân; sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Ngày 22 tháng 12

 “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.[52]

Đây là lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho Quân đội nhân dân Việt Nam nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập 22 tháng 12 năm 1964 và đó cũng chính là truyền thống vẻ vang của Quân đội ta, là chuẩn mực của “Bộ đội Cụ Hồ”.

Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, luôn vững vàng trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, hy sinh phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xứng đáng với vai trò là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân trở thành phẩm chất hàng đầu của người cách mạng và mỗi quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Phẩm chất đó là cơ sở vững chắc của sức mạnh đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động; là động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao ý chí quyết tâm, huy động mọi sức lực và trí tuệ, phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất mọi nhiệm vụ được giao.

Trung với Đảng, trung với nước của quân đội ta trước hết thể hiện ở sự tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, là trung thành với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước.

Hiếu với dân là phải gắn bó với nhân dân, gần gũi nhân dân, dựa vào dân, nắm vững dân tình, dân tâm, dân trí, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, để dân tin, dân yêu, dân giúp đỡ, bao bọc chở che.

Trong suốt hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, cùng với toàn dân tộc kinh qua các cuộc trường chinh kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn kiên cường, bất khuất dù phải đối mặt với đế quốc, thực dân hung bạo. Với niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, với tinh thần tự tôn dân tộc, quân đội đã luôn giữ vững lời thề “Cảm tử để Tổ quốc quyết sinh”. Tinh thần bất khuất, kiên trung, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân đã được lớp lớp cán bộ, chiến sĩ kế thừa và phát huy làm cho bản chất và truyền thống cách mạng của quân đội ta càng thêm sâu sắc, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng tỏa sáng. Đó là cội nguồn tạo nên sức mạnh thần kỳ; là sức mạnh giúp quân đội ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tiến lên chính quy, hiện đại đủ sức hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày 23 tháng 12

                                “Dân ta phải giữ nước ta,

                         Dân là con nước, nước là mẹ chung”[53].

Là câu thơ do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm và đọc chiều ngày 23 tháng 12 năm 1946 trong văn kiện có nhan đề “Hỏi và trả lời” nhằm giải thích và tuyên truyền cho cuộc kháng chiến toàn quốc mới bùng nổ. Với quyết tâm: “…Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”; bởi Tổ quốc là Tổ quốc chung, Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ. Mỗ người đều phải có bổn phận với đất nước, khi Tổ quốc lâm nguy thì mọi tầng lớp người Việt Nam đều có chung một kẻ thù, một nhiệm vụ là đứng lên chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện Lời kêu gọi của Người, toàn quân, toàn dân đã đồng lòng, quyết tâm đứng lên với tinh thần: “Ai có súng dùng súng, ai có gương dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước” đã chiến đấu, chiến thắng cuộc chiến tranh dài ngày nhất của thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi đó được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

Trọng dân, gần dân, thân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì nhân dân quên mình, chăm lo đến lợi ích của dân, dân chủ với dân, thật sự tôn vinh nhân dân làm chủ xã hội là một tư tưởng lớn, mang tính văn hóa, nhân văn, nhân đạo cao cả và tính cách mạng, tính nhân dân sâu sắc của Hồ Chí Minh được Đảng, Nhà nước quán triệt, thực hiện trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Với chủ trương xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện nhất quán phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã trực tiếp tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững độc lập, toàn vẹn lãnh thổ; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạn, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, làm nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù hùng bạo. Cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn giữ vững và phát huy tốt mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, thực hiện “quân với dân một ý chí” đã trở thành mối quan hệ mẫu mực được ví như “cá – nước”, được nhân dân tin tưởng, yêu mến và tặng cho danh hiệu cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.

Ngày 24 tháng 12

 “Chúng ta toàn dân, giáo cũng như lương, đoàn kết kháng chiến để Tổ quốc được độc lập, tôn giáo được tự do”[54].

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào công giáo nhân dịp Lễ Noen năm 1947.

Đây là thời điểm diễn ra Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947, thực dân Pháp tiến hành kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, mở cuộc hành quân Xanh – tuya càn quét vùng tứ giác Tuyên Quang – Thái Nguyên – Phủ Lạng Thương – Việt Trì, nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh, để hoàn tất việc tái chiếm Đông Dương. Nhưng đã bị các lực lượng của ta, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh bại, buộc Pháp phải rơi vào bẫy “đánh lâu, thắng lâu”, kéo căng lực lượng do Việt Minh đã răng sẵn và cuối cùng là thất bại hoàn toàn vào ngày 07 tháng 5 năm 1954 tại Điện Biên Phủ.

Dù ở nơi Chiến khu rừng núi xa sôi, đường xá cách trở, dù phải đối mặt với bao hiểm nguy của cuộc càn quét, tấn công tổng lực của thực dân Pháp, dù bận trăm công, nghìn việc của Chính phủ lâm thời… nhưng trước sự kiện trong đại của đồng bào công giáo, Hồ Chí Minh vẫn giành thời gian để viết thư chúc mừng và động viên; trong thư Bác Hồ đã nhắn nhủ đồng bào ta, dù giáo cũng như lương phải đoàn kết để kháng chiến chống lại thực dân xâm lược, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và tự do cho các tôn giáo.

Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng, nhất quán trong các văn kiện của Đảng và pháp luật của nhà nước Việt Nam; là truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ta. Đã là người Việt Nam, dù theo tôn giáo, tín ngưỡng hay không theo tôn giáo, tín ngưỡng nào cũng có chung một dân tộc, đều là con cháu của dòng dõi Lạc Hồng.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, các đơn vị quân đội luôn quán triệt sâu sắc và tích cực vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; sống tốt đời, đẹp đạo, đồng hành cùng dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương, giáo và truyền bá các tà đạo trái phép. Giữ vững mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân.

Ngày 25 tháng 12

 “Tư tưởng thông suốt thì mọi việc làm đều tốt. Phải làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn thắng, tư tưởng cá nhân hoàn toàn thất bại”[55] .

Đây là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tối ngày 25 tháng 12 năm 1958 nhân dịp Người về thăm và nói chuyện với cán bộ, công nhân nhà máy cơ khí Hà Nội – nhà máy cơ khí hiện đại đầu tiên của nước ta do Liên Xô giúp đỡ xây dựng. Tại đây, Người giao trách nhiệm cho cán bộ, công nhân nhà máy phải phấn đấu xây dựng nhà máy trở thành nhà máy kiểu mẫu, hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1959, chuẩn bị cho kế hoạch dài hạn sau này. Muốn vậy, Người căn dặn phải đẩy mạnh đấu tranh tư tưởng hơn nữa; bởi tư tưởng thông suốt thì mọi việc làm đều tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc và lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng. Muốn làm tốt công tác tư tưởng, để cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương đến được với mọi người, động viên, khích lệ mọi người hăng hái, thi đua lao động, sản xuất, chiến đấu… thì phải làm tốt công tác tuyên truyền để cho tư tưởng được thông suốt; qua đó, để dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm; làm tốt công tác tuyên truyền sẽ không còn hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Dưới sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị hoạt động công tác đảng, công tác chính trị nói chung, công tác giáo dục chính trị tư tưởng nói riêng được cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt hiệu quả cao, đã động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa… Càng trong khó khăn, gian khổ bản lĩnh chính trị, niềm tin và ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân của cán bộ, chiến sĩ quân đội càng được khẳng định, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng tỏa sáng, xứng đáng với lời khen của Bác Hồ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Ngày 26 tháng 12

 “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”[56].

Là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác ngoại giao trong bài trả lời phỏng vấn của phóng viên các báo về vấn đề đoàn kết ngày 26 tháng 12 năm 1945.

Ngày 24 tháng 12 năm 1945, Việt Minh, Việt nam Cách mạng đồng minh và Việt Nam quốc dân đảng đã ký kết văn bản thỏa thuận hợp tác nhằm tăng cường sự đoàn kết, củng cố mặt trận liên hợp quốc dân để tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo thỏa thuận chung, văn bản này không công bố. Nhưng báo Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc dân đảng, đã công bố. Trước sự việc trên, phóng viên các báo đã có buổi phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh; trong nội dung có câu hỏi: Cụ cho biết về vấn đề ngoại giao? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời như trên, thể hiện quan điểm của Người về mối tương quan chặt chẽ giữa hiệu quả của công tác ngoại giao với thế và lực của đất nước.

Quan điểm về công tác đối ngoại của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta tiếp tục vận dụng, cụ thể hóa và phát triển qua các kỳ đại hội, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Công tác đối ngoại của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật, thoát khỏi tình trạng bao vây, cấm vận; trở thành thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế; có quan hệ ngoại giao với 185 nước trong tổng số 193 quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc, hơn 500 tổ chức phi chính phủ, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 đối tác, đối tác toàn diện với 10 đối tác trên thế giới; uy tín và vị thế của Việt nam ngày càng được củng cố và không ngừng tăng cao trên trường quốc tế…

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mang tính đột phá, góp phần củng cố tình đoàn kết, hữu nghị, tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy nhiều lĩnh vực hợp tác, ngăn ngừa xung đột, giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng, hội nhập quốc tế…. Toàn quân đang tích cực quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 806-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ngày 27 tháng 12

 “Các cấp, các ngành và mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm trong việc sử dụng sức người, sức của của nhân dân”[57].

Là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát biểu phiên họp bế mạc Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III tại Hà Nội, ngày 27 tháng 12 năm 1965.

Sau thất bại thảm hại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, tháng 12 năm 1964, Tổng thống Hoa Kỳ Giônxơn đã quyết định chuyển sang hiến lược “chiến tranh cục bộ” – một hình thức xâm lược thực dân mới được tiến hành bằng lực lượng quân viễn chính Mỹ, quân chư hầu và ngụy quân, cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam Việt Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc Việt Nam nhằm cứu vãn tình thế. Trước hành động leo thang quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 khóa III của Đảng đã họp và đi đến quyết tâm: “Ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ta nhất định thắng”. Trong phiên bế mạc chiều ngày 27 tháng 12 năm 1965, Hội nghị vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh dự và phát biểu, trong nội nội dung phát biểu Bác đã căn dặn các đại biểu Trung ương những điều tâm đắc trên, mà tựu trung là đề cao tinh thần tiết kiệm, bởi theo Bác “Tiết kiệm là thi đua yêu nước”; Bác luôn rất mực coi trọng tiết kiệm, chính Bác là một tấm gương sáng ngời về thực hành tiết kiệm và vận động mọi người cùng tiết kiệm, đây là nguồn gốc để tạo nên sức mạnh bền vững của đất nước. Từng hạt lúc, hạt gạo, viên đạn đều là mô hôi, nước mắt của nhân dân và sự thật đã chứng minh tư tưởng đề cao tiết kiệm của Hồ Chí MInh hoàn toàn đúng đắn. Các phong trào tiết kiệm, chống lãng phí đã được tổ chức nhân rộng trong cả nước. Chính vì vậy cách mạng nước ta đã cải thiện được khong ít khó khăn, cải thiện được điều kiện vật chất, để chiến đấu và chiến thắng chiến lược “chiến tranh cụ bộ” đánh đuổi sạch bóng quân thù.

Phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã được cán bộ, chiến sĩ quân đội tích cực hưởng ứng tham gia với các phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”; phong trào “yêu xe như con – quý xăng như máu”; Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí trang bị tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”… đã, đang được triển khai sâu rộng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”… đạt được kết quả thiết thực, góp phần nâng cao tuổi thọ của các loại vũ khí, trang bị, tiết kiệm ngân sách của nhà nước, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Ngày 28 tháng 12

 “Gia đình là hạt nhân của xã hội”[58].

Trích trong bài viết “Phải thật sự bảo đảm quyền lợi của phụ nữ” Hồ Chí Minh viết, đăng trên Báo Nhân dân, số 3199, ngày 28 tháng 12 năm 1962.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vai trò của gia đình, bởi theo Bác nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Vậy nên, quan tâm đến gia đình nhỏ trước tiên là phải thực hiện nam – nữ bình quyền. Với quan điểm đó, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, vấn đề gia đình đã được Hiến pháp đầu tiên của nước ta thông qua với nhiều điểm tiến bộ. Trong quan hệ gia đình, nam – nữ bình đẳng như nhau, chế độ hôn nhân được pháp luật quy định là một vợ một chồng…

Trải qua các thời kỳ lịch sử, quan hệ gia đình ngày càng được củng cố và hoàn thiện góp phần thúc đẩy việc hình thành và từng bước hoàn thiện quyền dân chủ trong quan hệ gia đình ở Việt Nam, trở thành môi trường tốt để giáo dục nhân cách con người, là cơ sở để xây dựng đời sống mới của xã hội mới, trở thành hạt nhân của xã hội Việt Nam.

Nhận thức gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển của đất nước, Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn quan tâm công tác  chăm lo xây dựng gia đình bằng nhiều chủ trương, chính sách cụ thể: Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị 49-CT/TW ngày 21 tháng 02 năm   2005  về “Xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước”, ngày 29 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 629/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” với mục tiêu hướng tới là xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, XII Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội. Như vậy, gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nên nhân cách con người. Gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn, gia đình phải trở thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con người.

Ngày 29 tháng 12

 “Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn luôn nhớ:

– Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng,

– Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không theo”[59].

Ngày 29 tháng 12 năm 1966, tại phiên họp cuối năm của Hội đồng chính phủ, khi đề cập đến khuyết điểm của công tác lưu thông phân phối Bác đã căn dặn những điều trên. Ở đây, Bác đề cập đến “không sợ thiếu”, “không sợ nghèo” không phải là cam tâm chịu nghèo, chịu thiếu. Cách mạng là để cuộc sống con người giàu có hơn, sung sướng hơn. Nhưng trước cái thiếu, cái nghèo còn đang hiện hữu thì phải làm sao thiếu mà được công bằng, nghèo mà lòng dân vẫn yên. Sợ sự không công bằng và sợ  lòng dân không theo là biểu thị thái độ, trách nhiệm của người quản lý. Trước đó, năm 1947 để giữ nghiêm pháp luật và kỷ luật Bác đã phải thức trắng đêm để suy nghĩ và đi đến quyết định bác đơn xin ân xá của Đại tá Trần Dụ Châu, nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu vì những vi phạm nghiêm trọng về mặt đạo đức, quản lý không tốt, bớt xén của bộ đội để dùng vào việc riêng.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Người, đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác phân phối hàng hóa trong hệ thống phân phối của nhà nước đã đề cao trách nhiệm, tận tâm, tận lực hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhất là giai đoạn đất nước còn trong chiến tranh và thực hiện cơ chế bao cấp, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Trong Quân đội, mọi chế độ, tiêu chuẩn, chính sách của cán bộ, chiến sĩ được quy định cụ thể trong các văn bản, được phổ biến và niêm yết công khai theo quy định ở từng cấp để mọi quân nhân biết, thực hiện. Hằng tháng, các cơ quan, đơn vị duy trì nghiêm nền nếp Ngày Chính trị văn hóa tinh thần để bộ đội được dân chủ tham gia góp ý trên mọi mặt công tác; qua đó tạo bầu không khí dân chủ, tin cậy đã trực tiếp xây dựng đơn vị có môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.

Ngày 30 tháng 12

 “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết[60]”.

Chủ tịch Hồ Chỉ minh viết trong bài “Đạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí học tập số 12 tháng 12 năm 1958.

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh là người bàn nhiều về đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng; theo Bác, đạo đức không chỉ là “gốc”, là nền tảng, là sức mạnh và nhân tố chủ chốt của người cách mạng, mà còn là thước đo của lòng cao thượng của con người, là gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Đối với người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, thì điều đầu tiên và vô luận trong mọi hoàn cảnh phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Ở đây, chính là việc người đảng viên thực hiện trọng vẹn lời hứa tại Lễ kết nạp đảng viên và giải quyết tốt ba mối quan hệ cơ bản của mỗi con người (với mình, với người và với việc).

Người đảng viên có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại tạm thời… cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Người đảng viên thật sự có đức thì bao giờ cũng luôn cố gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, lớp lớp đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội luôn không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, trở thành hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết và là tấm gương sáng về tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua; thuyết phục, chinh phục cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền bằng chính đạo đức cách mạng, năng lực, trách nhiệm, tinh thần chịu đựng, vượt qua khó khăn, gian khổ, tận tâm, tận lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng Quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; luôn giữ vững và không ngừng phát huy tốt phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với việc xây dựng, rèn luyện và phát huy tính tiền phong gương mẫu, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội; nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp.

Ngày 31 tháng 12

 “Cá nhân chủ nghĩa đẻ ra hàng trăm tính xấu như siêng ăn, biếng làm, kèn cựa, nghĩ đến mình không nghĩ đến đồng bào, tham danh lợi, địa vị.v.v…”[61].

Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí minh tại buổi nói chuyện với giáo viên và học sinh Trường Phổ thông cấp III Chu Văn An – Hà Nội ngày 31 tháng 12 năm 1958.

Chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh ví như “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng” và nó như một thứ vi trùng độc hại, là rác rưởi làm tha hóa các mối quan hệ vốn có của mỗi cán bộ, đảng viên. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà cán bộ, đảng viên phạm nhiều sai lầm, cần phải kiên quyết đấu tranh, sửa chữa, quét sạch.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ ra tội ác của chủ nghĩa cá nhân; đó là: Sống ích kỷ, sống thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Từ sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy, muốn quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn học tập để nâng cao và thấm nhuần đạo đức cách mạng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận; nâng cao dân trí, thực hiện và phát huy quyền dân chủ thực sự và rộng rãi, tăng cường mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng nhân dân; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, đề cao tự phê bình và phê bình và tích cực xây dựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp, để dẹp cái xấu, lấy xây là chính… Quan niệm và những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn, nhằm phòng tránh, đấu tranh hiệu quả chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng có giá trị lâu dài và tính thời sự cấp thiết.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất; đặt ra yêu cầu cao về tính tập thể, về mối quan hệ gắn bó đồng chí, đồng đội, quan hệ quân – dân… đã trở thành lời thề danh dự của người quân nhân, tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta, được nhân dân yêu mến, tin tưởng tặng cho danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”./.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập 15, tr.391.

[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.12, tr.316.

[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.15, tr.512.

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.7, tr.242.

[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.4, tr.483.

[6] Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.8, tr.304.

[7] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.12, tr.321.

[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.4, tr.108.

[9] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.6, tr.242.

[10] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.7, tr.230.

[11] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.9, tr.116.

[12] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.10, tr.447.

[13]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.5, tr.349.

[14] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.6, tr.467.

[15] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.5, tr.632.

[16]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.8, tr.335.

[17]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.12, tr.724.

[18]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.14, tr.664.

[19]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.9, tr.128.

[20]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.10, tr.446. 

[21]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.8, tr.336.

[22]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.8, tr.338.

[23]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.7, tr.238.

[24] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.9, tr.133.

[25] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.9, tr.134.

[26] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.9, tr.136.

[27]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.6, tr.494.

[28] H. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.12, tr.335-336.

[29]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.7, tr.248.

[30]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.5, tr.636.

[31] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.13, tr.505.

[32]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.6, tr.253.

[33]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.4, tr.130.

[34]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.13, tr.510.

[35] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.13, tr.512.

[36] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.4, tr.516.

[37] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.11, tr.205.

[38]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.10, tr.453.

[39] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.12, tr.355.

[40]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.13, tr.281.

[41]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.8, tr.364.

[42] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.8, tr.367.

[43] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.7, tr.248-249.

[44]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.11, tr.248-249.

[45]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.11, tr.612.

[46] Bài viết: “Hồ Chủ tịch khuyên răn bộ đội”, đăng trên báo Chiến thắng, tờ báo của Việt Nam Vệ Quốc đoàn, xuất bản tại Hà Nội (số 16 và 18 ngày 16 và ngày 18/12/1945 – HCT khuyên răn bộ đội; NXB CTQG HN2006, tr101.

[47]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.9, tr.293.

[48]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.7, tr.424.

[49]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.4, tr.534.

[50]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.13, tr.299.

[51]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.10, tr.458.

[52] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.11, tr.350.

[53]  . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.4, tr.539.

[54] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.5, tr.373.

[55]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.11, tr.590.

[56]  . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.4, tr.145.

[57] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.14, tr.692.

[58] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.13, tr.523.

[59] . . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.15, tr.223.

[60] . Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.11, tr.607.

[61]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Sđd, t.11, tr.595.